Trần Đại Quang, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Đồng chí Tô Lâm, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an; Đồng chí Vũ Đức Đam, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ; GS.TS. Nguyễn Xuân Thắng, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, nguyên Chủ tịch Viện Hàn lâm; Đồng chí Chu Ngọc Anh, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ; Đồng chí Phùng Xuân Nhạ, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo; GS.TS. Phùng Hữu Phú, Phó Chủ tịch thường trực Hội đồng Lý luận Trung ương; PGS.TS. Nguyễn Viết Thảo, Phó Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh; Đồng chí Lê Quang Vĩnh, Phó Chánh Văn phòng Trung ương Đảng; Đồng chí Bùi Trường Giang, Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chủ tịch Nước; Đồng chí Kiều Đình Thụ, Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ; Đồng chí Mai Xuân Hùng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học công nghệ và Môi trường của Quốc hội; Đồng chí Nguyễn Duy Thăng, Thứ trưởng Bộ Nội vụ; Đồng chí Võ Tuấn Nhân, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường; PGS.TS. Phan Văn Kiệm, Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam; Đồng chí Vương Văn Đình, Phó Trưởng ban Ban Thi đua – Khen thưởng Trung ương; Đồng chí Trần Ngọc Liêm, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Lâm Đồng; Đồng chí Trần Minh Hùng, Phó Tổng giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam; Đồng chí Nguyễn Hữu Đức, Phó Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội; cùng các đồng chí đại diện cho Ban Tổ chức Trung ương, Ban Tuyên giáo Trung ương, Ban Kinh tế Trung ương, Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Văn phòng Chủ tịch Nước, Văn phòng Chính phủ, Đảng ủy Khối các Cơ quan Trung ương, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư lệnh Hải quân, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh…

       
GS.TS. Nguyễn Quang Thuấn, Chủ tịch Viện Hàn lâm 
phát biểu tại lễ Kỷ niệm

Về phía Viện Hàn lâm, có: GS.TS. Nguyễn Quang Thuấn, Chủ tịch Viện Hàn lâm; PGS.TS. Bùi Nhật Quang, Ủy viên dự khuyết Ban chấp hành Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm; PGS.TS. Phạm Văn Đức, Phó Bí thư Đảng ủy, Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm; PGS.TS. Đặng Nguyên Anh, Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm; cùng các đồng chí Ủy viên Ban chấp hành Đảng bộ; Ủy viên Hội đồng Khoa học Viện Hàn lâm; Lãnh đạo các đơn vị thuộc và trực thuộc Viện Hàn lâm; Tổng biên tập, Phó Tổng biên tập tạp chí trực thuộc Viện Hàn lâm; Ban chấp hành Công đoàn và Ban chấp hành Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh Viện Hàn lâm; Các Giáo sư, Phó giáo sư, Tiến sĩ khoa học đang công tác tại Viện Hàn lâm…

Phát biểu tại Lễ Kỷ niệm, Chủ tịch Nước Trần Đại Quang đã chúc mừng, biểu dương những kết quả, thành tích và đóng góp quan trọng của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, góp phần tạo nên diện mạo và tiềm lực mới của nền khoa học xã hội Việt Nam theo hướng tiên tiến, hiện đại, ngày càng hội nhập sâu vào cộng đồng khoa học quốc tế. Chủ tịch Nước nhấn mạnh, khoa học xã hội Việt Nam nói chung, trong đó có Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam nói riêng, đã góp phần xây dựng hệ thống quan điểm phát triển đất nước, bồi đắp nền tảng chính trị của chế độ; cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; khẳng định và nâng cao vai trò tiên phong của Đảng về chính trị, lý luận, trí tuệ, văn hóa và đạo đức; tuyên truyền, giáo dục, động viên và tổ chức nhân dân thực hiện các nhiệm vụ cách mạng. Đặc biệt, khoa học xã hội và nhân văn đã đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước; khẳng định lịch sử hình thành và phát triển dân tộc, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, bảo tồn các giá trị và bản sắc văn hóa Việt Nam.

Đồng chí Trần Đại Quang, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước 
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng quà cho Viện Hàn lâm

Cùng với việc tập trung nghiên cứu các vấn đề khoa học xã hội cơ bản về đất nước, văn hóa và con người Việt Nam, Viện Hàn lâm cần tiếp tục nghiên cứu, luận giải những vấn đề cơ bản và chiến lược đã đặt ra; đồng thời, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, dự báo xu hướng phát triển, cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, xây dựng chiến lược phát triển đất nước trong giai đoạn mới.

Qua đó rút ra những bài học kinh nghiệm và nghiên cứu những vấn đề thực tiễn mới của đất nước cần giải đáp về mặt lý luận trong giai đoạn 2016-2020 và giai đoạn tiếp theo; đồng thời đẩy mạnh nghiên cứu các vấn đề khoa học xã hội ở tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, chú trọng kết hợp giữa nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu triển khai; tăng cường và mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế; đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng phẩm chất chính trị, trình độ nghiệp vụ, năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp của những người làm công tác khoa học xã hội. Xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học xã hội vững mạnh, đủ sức giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn của đất nước, tạo tiềm lực mạnh cho sự phát triển của khoa học xã hội trong thời gian tới, góp phần đưa nền khoa học xã hội Việt Nam đạt trình độ tiên tiến, ngang tầm các nước trong khu vực và trên thế giới.

Trong diễn văn Kỷ niệm Ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam, GS.TS. Nguyễn Quang Thuấn, Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam khẳng định vai trò quan trọng và sự đánh giá cao cũng như sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đến khoa học công nghệ.

       
Chủ tịch Nước Trần Đại Quang và Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam chụp ảnh lưu niệm với Lãnh đạo Viện Hàn lâm và các đại biểu

Là một cơ quan có chức năng nghiên cứu khoa học, đào tạo và tư vấn chính sách, trong hơn 60 năm xây dựng và phát triển, các kết quả nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã đóng góp thiết thực vào việc cung cấp luận cứ khoa học cho Đảng, Nhà nước trong việc hoạch định đường lối, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển nhanh và bền vững của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Các kết quả nghiên cứu của Viện Hàn lâm đã thể hiện sự nghiên cứu có chiều sâu, góp phần xây dựng đường lối, chính sách dựa trên các luận cứ khoa học, đóng góp vào Văn kiện các kỳ Đại hội Đảng, nghiên cứu triển khai các nội dung Nghị quyết các kỳ Đại hội, đóng góp xây dựng dự thảo Hiến pháp, các bộ luật, triển khai nghiên cứu việc thực hiện các bộ luật trong đời sống, góp phần xây dựng dự thảo và phản biện Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của đất nước...

Để khoa học thực sự đi vào cuộc sống và có những đóng góp thiết thực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, GS.TS. Nguyễn Quang Thuấn kêu gọi toàn thể cán bộ, công chức, viên chức và người lao động Viện Hàn lâm biến quyết tâm thành hành động để đóng góp nhiều hơn nữa vào sự phát triển đất nước, xứng đáng với niềm mong mỏi mà sinh thời, Bác Hồ đã gửi gắm ở các nhà khoa học.

Lãnh đạo Viện Hàn lâm và Lãnh đạo Bộ Công an 
chụp ảnh lưu niệm tại buổi Lễ

Thay mặt các nhà khoa học, GS.TS. Đỗ Tiến Sâm, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Trung Quốc đại diện cho các thế hệ các nhà khoa học lớn tuổi; PGS.TS. Nguyễn Thị Phương Châm, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Văn hóa, đại diện cho các nhà khoa học nữ; TS. Võ Xuân Vinh, Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh Viện Hàn lâm, đại diện cho các thế hệ các nhà khoa học trẻ đã phát biểu những ý kiến của mình nhân dịp ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam, cảm ơn sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đến những người làm công tác nghiên cứu khoa học, đồng thời nói lên nguyện vọng của các nhà khoa học đối với Đảng và Nhà nước về nhiều vấn đề trong nghiên cứu khoa học và ổn định cuộc sống, yên tâm công tác; nhấn mạnh việc cụ thể hóa và đồng bộ hóa chính sách, quy định pháp luật về khoa học và công nghệ để các chủ trương, chính sách thực sự đi vào cuộc sống, tạo cơ hội cho các nhà khoa học được cống hiến, góp phần đưa nền khoa học nước nhà ngày càng phát triển.

 
     
 

Toàn cảnh lễ Kỷ niệm

Việc Chủ tịch Nước Trần Đại Quang đến thăm Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam vào đúng Ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam thể hiện sự quan tâm của Đảng, Chính phủ tới giới khoa học xã hội nói chung và Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam nói riêng, đó là động lực to lớn thúc đẩy giới khoa học có nhiều công trình khoa học hơn nữa cống hiến cho sự phát triển bền vững của đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.

Viện Khảo cổ học sẽ tổ chức buổi Hội thảo khoa học "Báo cáo kết quả khai quật nghiên cứu di tích Bản Nàng 1 và khu mộ Huổi Pa thuộc vùng lòng hồ thủy điện Trung Sơn (Thanh Hóa)" do nhóm nghiên cứu thuộc Viện Khảo cổ học thực hiện.

- Thời gian: 09 giờ sáng ngày 21 tháng 4 năm 2016 (Thứ 5).

- Địa điểm: Hội trường Viện Khảo cổ học

                Số 61 Phan Chu Trinh, Hoàn Kiếm, Hà Nội

- Chương trình:

9h - 9h15: Đón tiếp đại biểu.

9h15 - 9h30: Khai mạc.

9h30 - 10h: Ths Lê Hải Đăng trình bày kết quả khai quật nghiên cứu di tích Bản Nàng 1.

Tóm lược nội dung: Di tích nằm trong không gian và hệ thống di tích thời đại đá ở miền tây Thanh Hóa, trước đây được nhận định là thuộc hậu kỳ thời đại đá cũ. Tuy nhiên, ở đợt khai quật này bước đầu đã tìm được một số chứng cứ như: rìu mài, mảnh gốm và đặc biệt là mảnh nồi nấu kim loại bằng gốm… nằm trong tầng văn hóa ổn định, cho thấy di tích có niên đại muộn hơn nhiều, khả năng nằm ở giai đoạn hậu kỳ đá mới - sơ kỳ kim khí.

10h - 10h30: Nghiên cứu viên Nguyễn Văn Mạnh trình bày kết quả khai quật nghiên cứu di tích khu mộ Huổi Pa.

Tóm lược nội dung: bước đầu đã xác định đây là khu mộ cổ của người Thái nằm trong khung niên đại từ đầu thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX. Bên cạnh những yếu tố văn hóa của tộc người chủ thể, còn thấy nhiều yếu tố văn hóa của tộc người Mường sinh sống trên cùng địa bàn hiện diện khá đậm nét. Ngoài ra, những hiện vật gốm sứ tùy táng có nguồn gốc từ Hà Nội và Hải Dương, còn thể hiện rằng tộc người Thái đã có những giao lưu văn hóa, kinh tế với người Kinh ở “miền xuôi” từ rất sớm.

10h30 - 11h30: Thảo luận.

Viện Khảo cổ học trân trọng kính mời ông (bà) quan tâm đến tham dự.

Rất hân hạnh được đón tiếp./.

Ngày 19/5, khu trưng bày "Những khám phá khảo cổ học dưới lòng đất Nhà Quốc hội" chính thức đi vào hoạt động. Đây được xem là Bảo tàng Khảo cổ học đầu tiên tại Việt Nam do Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam thực hiện.
 

 


Với 140 di tích cùng hàng chục ngàn di vật khảo cổ được tìm thấy tại đây đã góp phần phản ánh sinh động lịch sử phát triển liên tục, lâu dài của khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long qua suốt 1300 năm. Đồng thời minh chứng rõ, khu vực xây dựng toà Nhà Quốc hội là một bộ phận quan trọng nằm ở phía Tây Nam của khu Trung tâm Cấm thành của Kinh đô Thăng Long ngàn năm văn hiến.

Để tạo nên sự kết nối hài hoà giữa truyền thống và hiện đại, và để toà Nhà Quốc hội thực sự hoá thân vào tiến trình lịch sử vinh quang của dân tộc, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương dành một phần diện tích dưới tầng hầm của toà nhà để làm nơi trưng bày một số loại hình di tích, di vật tiêu biểu khai quật được dưới lòng đất toà Nhà Quốc hội nhằm tạo nên hình ảnh biểu trưng độc đáo của sự tiếp nối, tôn vinh giá trị truyền thống, phản ánh sức sống trường tồn của trung tâm quyền lực trong lịch sử vẻ vang của dân tộc, đồng thời góp phần quan trọng trong việc quảng bá giá trị di sản Hoàng thành Thăng Long, đáp ứng yêu cầu tham quan và hưởng thụ văn hóa của nhân dân và khách quốc tế tại tòa Nhà Quốc hội.

Nội dung chính của khu Trưng bày "Những khám phá khảo cổ học dưới lòng đất Nhà Quốc hội" là giới thiệu một số loại hình di tích, di vật tiêu biểu, đặc sắc nhất khai quật được tại khu vực xây dựng Nhà Quốc hội vào những năm 2008-2009 dưới 2 tầng hầm của tòa nhà. 
 

 

Các hiện vật kiến trúc có hình rồng, phượng tại khu trưng bày.

Đây là trưng bày về khảo cổ học nên giải pháp trưng bày được thể hiện theo lát cắt địa tầng khảo cổ tức là theo thời gian từ xưa lại gần. Theo đó, phương pháp trưng bày được thực hiện mang tính thống nhất là trưng bày lồng ghép, xen cài giữa di tích và di vật, trong đó di tích được xem là "hồn cốt", di vật được xem là các "hạt nhân" được trưng bày ngay trong lòng các di tích nhằm đem lại những cảm xúc và ấn tượng mạnh cho từng không gian trưng bày. 

Trong mỗi không gian trưng bày ở mỗi tầng hầm đều có những "điểm nhấn" tạo nên tính độc đáo, riêng biệt, đồng thời những "câu chuyện kể" về lịch sử phát hiện dưới lòng đất về Kinh đô Thăng Long xưa, trung tâm quyền lực lâu đời của quốc gia Đại Việt trong lịch sử được diễn giải sinh động qua di tích, di vật với những chủ đề và phong cách trình diễn đồ họa đặc sắc cùng hệ thống sa bàn, hình ảnh, Media và ánh sáng hiện đại.
 

 

Bức tranh gốm ghép bằng gạch ngói phát hiện tại các hố khai quật (Ảnh Thanh niên)

Nhưng nét độc đáo nhất ở khu trưng bày này phải kể đến hai bức tranh tường đặc sắc có kích thước lớn được lắp ghép từ chính mảnh vỡ của các loại gạch ngói khai quật được tại khu di tích và chứa đựng những thông điệp của lịch sử xây dựng Kinh đô Thăng Long. Đó là bức tranh "Rồng bay" và "Bình minh Thăng Long" do nữ tác giả Bùi Thu Trang sáng tác. Bức tranh "Rồng bay" được khơi nguồn từ hình tượng rồng thời Lý và ghi chép của sử cũ về sự kiện năm 1010. Mùa thu năm ấy, khi đến thành Đại La, vua Lý Thái Tổ thấy rồng vàng hiện lên và sau đó đã quyết định hạ Chiếu dời đô từ Hoa Lư về đây và đổi tên là Thăng Long (Rồng bay lên). Tác phẩm "Bình minh Thăng Long" được lấy cảm hứng từ hình tượng lá đề và đầu ngói ống trang trí hoa sen lợp trên mái kiến trúc cung điện thời Lý để biểu đạt hình tượng về lịch sử khai sáng Kinh đô Thăng Long vào mùa thu năm 1010 cùng sự tỏa sáng rực rỡ của nền văn hóa Đại Việt kể từ vương triều Lý.
 

 


Theo PGS.TS. Bùi Minh Trí, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Kinh thành, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam cho biết: "Ý tưởng trưng bày ở đây là phân theo địa tầng khảo cổ học, theo diễn biến thời gian từ xa xưa lại gần. Với cấu trúc đó, Tầng hầm 2: Trưng bày thời kỳ Tiền Thăng Long, thời kỳ trước khi Vua Lý Công Uẩn hạ Chiếu dời đô về đây; Tầng hầm 1: Trưng bày thời kỳ Thăng Long, tức là sau 1010, sau khi Vua Lý Công Uẩn hạ đô. Ở mỗi một tầng hầm, trong mỗi một không gian, chúng tôi lại lựa chọn những điểm nhấn nhằm đem lại những cảm xúc, những ấn tượng cho người xem và thể hiện những giá trị cốt lõi nhất của di sản đến công chúng một cách tự nhiên".

Để có được không gian này, là kết quả làm việc sau gần 4 năm miệt mài làm việc, của các nhà khoa học của Trung tâm Nghiên cứu Kinh thành thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, là đơn vị được giao nhiệm vụ chủ trì thực hiện dự án, họ đã bảo quản những di tích, hiện vật nguyên gốc, nhằm đưa đến một không gian khảo cổ như đã tìm thấy tại khu di tích, để tạo ra một trưng bày mang tầm quốc tế, phản ánh trung thực, khách quan và có tính khoa học cao. Những công việc rất thầm lặng đó giờ đây đã có thể giới thiệu đến với công chúng với một khu trưng bày tuyệt vời. 

Khu trưng bày những khám phá khảo cổ học dưới lòng đất Nhà Quốc hội có không gian dành cho trẻ em, thiết kế dành cho người tàn tật, những điều đó cho thấy, khu trưng bày này đang hướng tới cộng đồng, để kết nối cộng đồng với lịch sử, kết nối giữa Tòa nhà Quốc hội với nhân dân bằng niềm tự hào về lịch sử cha ông, và lịch sử của chính mảnh đất này.
Tuyết Minh (hanoimoi.com.vn)
Vòng ống chân, vòng ống tay, khuyên tai hay nhẫn được chế tác từ nhiều chất liệu của người Việt cổ thời văn hóa Đông Sơn cách nay 2500-2000 năm lần đầu tiên được trưng bày tại Nghệ An.

Trong chuỗi hoạt động kỷ niệm 126 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890-2016), Bảo tàng Nghệ An tổ chức trưng bày triển lãm Nghệ An thời tiền sử đến buổi đầu dựng nước, tinh hoa cổ vật xứ Nghệ. Các hiện vật trong bộ sưu tập đồ trang sức của người Việt cổ thời kỳ văn hóa Đông Sơn (cách nay 2500-2000 năm) là phần đặc biệt của triển lãm.

 

Vòng ống chân, hiện vật thu được tại di chỉ khảo cổ học Làng Vạc, huyện Nghĩa Đàn (nay là thị xã Thái Hòa) năm 1981. Vòng ống loại này thường có một rãnh hở để điều chỉnh độ rộng khi đeo. Ở vành miệng và thân vòng được gắn nhạc đồng. Vòng ống chân, hay ống tay ngoài chức năng trang sức còn có nhiệm vụ chống đỡ, làm vật cản khi những vật nhọn, nặng đâm vào cổ tay, cổ chân...

 

Vòng ống tay, hiện vật thu được tại huyện Tân Kỳ (Nghệ An). Theo nghiên cứu, những vòng ống tay, vòng ống chân hoa văn đẹp, đeo đầy những quả lục lạc tìm thấy không thể là của người dân Đông Sơn bình thường mà phải của tầng lớp quý tộc giàu có mới đủ khả năng và được quyền đeo. Điều này cho thấy xã hội thời cổ đã có sự phân hóa giàu - nghèo.

 

Vòng tay, hiện vật thu được tại di chỉ Đồng Mô, xã Hưng Thắng, huyện Hưng Nguyên. Theo tài liệu, người Việt cổ chọn lọc các chất liệu làm đồ trang sức rất đơn giản, dễ kiếm tìm và giàu màu sắc. Bắt đầu từ nguồn nguyên liệu có sẵn trong tự nhiên như đá đến nguyên liệu do con người tạo ra như đồng và thủy tinh.

 

Một loại vòng tay khác thu được tại di chỉ Đồng Trương, huyện Anh Sơn năm 2000. Thông qua bộ sưu tập đồ trang sức cho thấy cư dân Đông Sơn trước hết sử dụng đồ trang sức đeo vào tai, cổ, ngón tay, cổ tay, cánh tay, bắp tay, cổ chân để làm đẹp...

 

Hầu hết hiện vật đồ trang sức văn hóa Đông Sơn thu được tại các di chỉ mộ táng. Trong các di chỉ mộ táng, các nhà khảo cổ tìm được vị trí của thân thể người chết như đúng chức năng của nó, gồm vòng tay ở tay, khuyên tai ở tai, hạt chuỗi ở cổ hay cổ tay. Điều này chứng tỏ người xưa giữ nguyên đồ trang sức khi chết, sống đeo đồ trang sức gì thì chết đeo đồ trang sức đó, nguyên vị trí.

 

Bộ nhẫn đeo tay, thu được tại di chỉ khảo cổ học Làng Vạc (huyện Nghĩa Đàn) năm 1973 và 1990. Ở thời kỳ văn hóa Đông Sơn, nhẫn dùng để đeo vào các ngón tay, chất liệu bằng đồng, màu xanh rỉ đồng, rộng bản với đường kính dao động 1,5-1,6 cm.

 

Chuỗi hạt này thu được tại di chỉ khảo cổ học Làng Vạc (huyện Nghĩa Đàn) năm 1973. Trong sưu tập tại bảo tàng, có 34 hiện vật chuỗi hạt gồm các loại chất liệu như đá, thủy tinh và đất nung. Hiện vật gồm một hạt hoặc nhiều hạt kết thành chuỗi, có lỗ xuyên suốt ở giữa để xâu dây dùng đeo cổ, đeo cổ tay và có thể ở cổ chân.

 

Bộ sưu tập khuyên tai tìm thấy tại di chỉ khảo cổ học Làng Vạc (huyện Nghĩa Đàn) năm 1973 và 1981. Tại bảo tàng có 65 hiện vật khuyên tai với chất liệu đá và thủy tinh. Các hiện vật cho thấy khuyên dùng để đeo tai, hình tròn, có khe hở, một mặt phẳng, một mặt có hai khớp với các màu sắc như xanh nhạt, màu xanh đậm, màu xanh lá cây.

 

Bà Nguyễn Thị Mai, Trưởng phòng Nghiên cứu kiểm kê bảo quản Bảo tàng Nghệ An cho biết, bộ sưu tập đồ trang sức văn hóa Đông Sơn tại bảo tàng có 495 hiện vật được chia thành 4 nhóm dựa vào tiêu chí chất liệu, bằng đá, đất nung, đồng và thủy tinh.

 

Cùng với các hiện vật là đồ trang sức thuộc văn hóa Đông Sơn, Bảo tàng còn trưng bày hàng trăm hiện vật quý giá khác được tìm thấy tại Nghệ An cùng niên đại thuộc văn hóa Đông Sơn. Nổi bật là chiếc trống đồng thu được tại xã Đồng Hợp huyện Quỳ Hợp tìm thấy năm 2006. Trống có đường kính 90 cm, đang được ghi nhận là chiếc trống đồng to và giá trị nhất tại Nghệ An đến nay.

Ngày 18/5, tại Bảo tàng Tổng hợp tỉnh Bình Định đã khai mạc Triển lãm chuyên đề: “Di sản văn hóa các dân tộc trên địa bàn tỉnh Bình Định”. Đây là hoạt động thiết thực kỷ niệm Ngày Quốc tế Bảo tàng 18/5 và Kỷ niệm 126 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890-19/5/2016) gắn với sự kiện 105 năm ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước (05/6/1911-05/6/2016).

trien-lam-vhdt

Đại biểu cắt băng khai mạc triển lãm

Bình Định là vùng đất trầm tích, có bề dày lịch sử văn hóa lâu đời đang lưu giữ nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể có giá trị. Triển lãm lần này trưng bày hơn 180 hình ảnh, tài liệu hiện vật nổi bật những nét đặc trưng về di sản văn hóa của các dân tộc trên địa bàn tỉnh.

Nội dung triển lãm được thể hiện qua 3 phần: phần 1 giới thiệu về những nét văn hóa độc đáo, phong phú của cộng đồng các dân tộc tại Bình Định như kiến trúc, điêu khắc, làng nghề truyền thống…; phần 2 giới thiệu những loại hình nghệ thuật nổi tiếng ở Bình Định và phần 3 nói lên sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với di sản văn hóa của Bình Định.

trien-lam-vhdt-1

Ông Nguyễn Văn Ngọc-GĐ Bảo tàng Tổng hợp tỉnh Bình Định phát biểu khai mạc triển lãm

Đây cũng là dịp để các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ tìm hiểu, nâng cao hiểu biết về di sản văn hóa các dân tộc trên địa bàn tỉnh, bản sắc văn hóa của từng dân tộc, tính cộng đồng, tính đa dạng và độc đáo. Đặc biệt cùng với hệ thống trưng bày trong nội thất Bảo tàng, người xem có thể tìm hiểu về truyền thống lịch sử văn hóa, đất nước con người Bình Định, góp phần tôn vinh những giá trị văn hóa đặc sắc của đồng bào các dân tộc. Đây cũng là nguồn tư liệu quý cho các nhà nghiên cứu, khách tham quan trong nước và quốc tế.

trien-lam-vhdt-2

Đại biểu tham quan triển lãm

 Các sinh viên tham quan triển lãm

Triển lãm sẽ diễn ra từ ngày 18/5 đến hết ngày 05/6/2016.

Bùi Tuyết

Gặp mặt kỷ niệm ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam (18/5)

 

 

Sáng ngày 17/5, Viện Khảo cổ học tổ chức gặp mặt các nhà khoa học hiện đang công tác tại Viện nhân ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam (18/5). Buổi gặp mặt có sự tham dự của các đồng chí lãnh đạo và đông đảo các cán bộ hiện đang công tác tại Viện Khảo cổ học.

Phát biểu tại buổi gặp mặt, PGS. TS. Bùi Văn Liêm - Phó viện trưởng thay mặt lãnh đạo Viện Khảo cổ học đã nhấn mạnh ý nghĩa của ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Đây là sự kiện thể hiện sự quan tâm và coi trọng của Đảng và Nhà nước đối với khoa học công nghệ, với ý nghĩa nhằm tôn vinh các nhà khoa học hoạt động trong lĩnh vực khoa học và công nghệ nói chung.

 

 Phát biểu của PGS. TS. Bùi Văn Liêm – Phó viện trưởng Viện Khảo cổ học

Tại buổi gặp mặt, các đại biểu đã cùng nhau ôn lại những kỷ niệm và truyền thống xây dựng và phát triển của Viện trong gần 50 năm qua, cũng như chia sẻ kinh nghiệm và đưa ra những đề xuất với các đồng chí lãnh đạo Viện nhằm đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học của Viện trong thời gian tới.

Phát biểu của các nhà khoa học và cán bộ Viện

Tiếp đó, PGS. TS. Nguyễn Giang Hải - Viện trưởng đã ghi nhận những ý kiến đóng góp quý báu của các nhà khoa học và các cán bộ Viện. Nhân dịp này, thay mặt lãnh đạo Viện, PGS. TS. Nguyễn Giang Hải cũng gửi lời cảm ơn và tri ân sâu sắc đến các thế hệ cán bộ đã và đang góp sức xây dựng Viện Khảo cổ học ngày càng lớn mạnh.

Phát biểu của PGS. TS. Nguyễn Giang Hải – Viện trưởng Viện Khảo cổ học

Kết thúc buổi gặp gỡ, thay mặt lãnh đạo Viện, PGS. TS. Bùi Văn Liêm một lần nữa nhấn mạnh những đóng góp to lớn của đội ngũ các nhà khoa học của Viện trong lĩnh vực khảo cổ học, và mong muốn các nhà khoa học có nhiều sức khỏe để tiếp tục cống hiến cho sự nghiệp nghiên cứu khoa học nói chung, cũng như sự phát triển của Viện Khảo cổ học nói riêng.

Khổng Thiêm

 

 
 
 
Tin liên quan:
Tin cũ hơn:

Tạp chí Khảo cổ học số 1 - 2016

Thứ năm, 19 Tháng 5 2016 15:38

Tạp chí Khảo cổ học số 1 – 2016

Dày 100 trang (cả bìa) – Khổ 19cm x 27cm

 Trong số này gồm 10 bài viết về tổng quan Khảo cổ học ở Việt Nam

Xin giới thiệu tóm tắt sơ lược về các bài đã đăng trên tạp chí số 1 - 2016

MỤC LỤC

STT

 

Tr

1

Tư liệu mới về địa tầng và phương thức cư trú của người tiền sử ở Sủa Cán Tỷ (Hà Giang)

NGUYỄN TRƯỜNG ĐÔNG

“Di chỉ Sủa Cán Tỷ nằm ở thôn Sủa Cán Tỷ, xã Cán Tỷ, huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang, được phát hiện vào năm 2000 và khai quật năm 2013 gồm 3 hố với diện tích 100m2. Địa tầng hố khai quật có hai lớp đất phân biệt: lớp bồi tích ở bên trên và lớp sét ở dưới. Di vật phân bố hoàn toàn trong lớp bồi tích nên khả năng chúng được trôi từ trên sườn núi xuống vào một thời điểm nào đó. Di vật thu được gần 200 chiếc, đều là đồ đá với các công cụ cuội ghè đẽo chủ yếu là chopper kiểu kỹ nghệ Sơn Vi, mảnh tước, chỉ có một số nhỏ là công cụ kiểu Hòa Bình. Đây là di tồn văn hóa của nhóm cư dân hậu kỳ Đá cũ với phương thức cư trú di động để khai thác các nguồn thức ăn”.

3

2

Di cốt người cổ hang Diêm (Thanh Hóa)

TRƯƠNG HỮU NGHĨA, NGUYỄN ANH TUẤN

“Hang Diêm thuộc bản Sánh, xã Thành Yên, huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa, được phát hiện năm 2012 và được đoàn khảo cổ học hợp tác Việt-Nga khai quật năm 2013 - 2014. Địa tầng hố khai quật dày 1,8m, xuất lộ tầng văn hóa gồm ba lớp, mỗi lớp có một di tích mộ táng. Hai di tích mộ táng thuộc tầng văn hóa trên và giữa thuộc về 5 cá thể, di cốt trong tình trạng bị vỡ nát, một số mảnh bị đốt cháy; chúng có thể là mộ cải táng.

 Di cốt của di tích mộ táng thuộc lớp văn hóa sớm nhất còn khá nguyên vẹn. Vị trí các bộ phận di cốt còn nguyên trong tư thế giải phẫu cho thấy người chết được chôn trong tư thế chân co gập (flexed leg). Thành phần nhân chủng của di cốt này sơ bộ được xác định có những yếu tố thuộc đại chủng Mongoloid nhưng lại có yếu tố Australoid hay Melanesian. Đây là một trong số ít di tích mộ táng thuộc dạng quý hiếm trong giai đoạn cuối hậu kỳ Pleisstocene ở Việt Nam”.

11

3

Di chỉ Huổi Han (Lai Châu) - Tư liệu và nhận thức

LÊ HẢI ĐĂNG

“Di chỉ  Huổi Han thuộc thị trấn Mường Tè, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu được phát hiện năm 2012 và khai quật năm 2014. Địa tầng di chỉ dày trên 1m trong dó tầng văn hóa dày khoảng 55-65cm còn khá nguyên vẹn. Các di tích phát hiện được trong các hố khai quật gồm bép lửa, khu vực chế tác đá. Di vật thu được đều là đồ đá, trong đó chủ yếu là công cụ ghè đẽo, mảnh tước, chày nghiền, hòn ghè, chỉ có một rìu mài toàn thân, một phác vật vòng tay và một số bàn mài. Khung niên đại dự đoán cho di chỉ vào khoảng 4.500 - 4.000 năm BP thuộc giai đoạn hậu kỳ Đá mới - sơ kỳ thời đaik Kim khí. Đây là di tích có đặc trưng tương đồng với hệ thống di tích phân bố trong khu vực với sự bảo lưu đậm nét truyền thống công cụ ghè đẽo trong bối cảnh hậu kỳ thời đại Đá mới trong khu vực Tây Bắc”.

22

4

Phân loại và định niên đại trống đồng tỉnh Khánh Hòa

NGUYỄN PHÚC CẦN

“Sưu tập trống đồng phát hiện được ở tỉnh Khánh Hòa gồm 5 chiếc còn khá nguyên hình dạng để có thể nghiên cứu. Dựa vào hình dáng, hoa văn trang trí, di vật chôn theo trống và cách phân loại trống đồng của những nhà nghiên cứu trước, các tác giả đã phân loại các trống ở Khánh Hòa thành các nhóm, kiểu và xác định niên đại của chúng như sau:

- Nhóm trống A1 (Heger I) là trống Đông Sơn, gồm 3 trống: trống Đại Cát I, trống Đại Cát II và trống Đại Mỹ, có niên đại từ TK VI đến TK III BC.

Nhóm trống B2 gồm 2 trống: trống Nha Trang I và trống Nha Trang II, có niên đại từ TK IV BC đến TK I AD”.

30

5

Khảo cổ học biển ở Quảng Nam và Quảng Ngãi

BÙI VĂN LIÊM, BÙI VĂN HIẾU

Tiềm năng khảo cổ học dưới nước nói riêng và khảo cổ học biển nói chung ở Quảng Nam, Quảng Ngãi là rất lớn. Hệ thống sông ngòi ở hai tỉnh này khá dày đặc, dọc bờ biển đều có những cửa, vùng biển thuận lợi cho tàu thuyền ra vào và cũng nằm trong tuyến thương mại biển của khu vực với những thương cảng nổi tiếng trong lịch sử. Ở đây, có đầy đủ những loại hình di tích chính và đối tượng nghiên cứu của khảo cổ học biển như:  Thương cảng cổ, tàu đắm, xưởng đóng tàu thuyền và các cộng đồng ngư dân biển với lịch sử phát triển hàng nghìn năm.

 Tuy nhiên, khảo cổ học biển ở đây vẫn chưa phát triển tương xứng với tiềm năng vốn có của nó và đang phải đối diện với các nguy cơ bị xâm hại. Do vậy, xác định  việc nghiên cứu hệ thống những di tích khảo cổ học dưới nước, các di tích bị chìm ngập và mối liên hệ lịch sử với các di tích trên đất liền ở các khu vực này trong phạm vi không gian và thời gian rộng hơn là việc làm hết sức cần thiết để làm cơ sở cho việc đề xuất những phương án bảo vệ, bảo tồn và phát huy giá trị của chúng”.

37

6

Khảo cứu bia miếu Đào Hoàng

(Nghè thôn Thanh Hoài, Thuận Thành, Bắc Ninh)

PHẠM LÊ HUY

“Tại Miếu Đào Hoàng (nay thuộc thôn Thanh Hoài, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh) có một tấm bia cổ đã được phát hiện và khảo cứu từ năm 2013. Bia Miếu Đào Hoàng được xác định có niên đại Kiến Hưng 2 (314). Đến năm Nguyên Gia thứ 27 (450), khi hậu duệ của Đào Hoàng là Đào Trân Chi cho xây dựng lại miếu theo lệnh của Giao Châu thứ sử ( Jiaozhou governor) Tiêu Cảnh Hiến, người ta đã cho khắc thêm minh văn thứ hai ở mặt sau.

 Qua khảo cứu minh văn ở mặt sau bia cũng như đối chiếu với các tư liệu lịch sử, tác giả đã hiệu đính nội dung văn bia, qua đó làm rõ một số nhân vật, địa danh và sự kiện lịch sử Việt Nam trong thế kỷ IV - V.

Các minh văn trên bia Miếu Đào Hoàng là một nguồn tư liệu lịch sử vô cùng quan trọng. Theo đó, gợi ý khả năng di tích thành cổ Lũng Khê chính là thành Long Biên do Thứ sử (governor) Đào Hoàng cho xây dựng vào cuối thế kỷ III”.

48

7

Về một số hệ thống dẫn/thoát nước ở 18 Hoàng Diệu, thuộc khu Trung tâm di tích Hoàng thành Thăng Long

NGUYỄN HỒNG KIÊN, NGUYỄN VĂN MẠNH

“Bài báo đề cập đến hệ thống dẫn/thoát nước thời Tiền Thăng Long và thời Lý đã được phát hiện tại khu vực 18 Hoàng Diệu thuộc khu trung tâm di tích Hoàng thành Thăng Long.

Qua đó, các tác giả cho rằng các dấu tích của hệ thống rãnh dẫn/thoát nước xung quanh một công trình giúp chúng ta có thể nhận diện được quy mô mặt bằng của các di tích. Các hệ thống cống, "đường nước" đều có công năng chính là dẫn/thoát nước, còn công năng phòng thủ quân sự nếu có chỉ là công năng phụ vì hệ thống cống này đều được phát hiện trong Cấm thành, việc phòng thủ quân sự không có nhiều ý nghĩa.

Trên thực tế, chúng ta có thể thấy khu vực Hoàng thành Thăng Long là một vùng trũng thấp, đang bồi lấp dở dang. Bởi vậy, nếu không có các hệ thống dẫn/thoát nước thật tốt, con người sẽ không thể sinh sống tại đây. Các nhà kiến trúc/xây dựng xưa đã có tư duy "thích ứng tự nhiên" khi dựa vào hệ thống sông/hồ, để xây dựng các hệ thống cống và rãnh dẫn/thoát nước”.

60

8

Móng cột thời Trần qua tài liệu khảo cổ học

BÙI VĂN HIẾU

Dưới góc độ kỹ thuật học, kiến trúc cổ truyền Việt là các công trình có hệ chịu lực bằng khung kết cấu gỗ, với cấu kiện cơ bản là hệ thống cột.

Trên cơ sở nghiên cứu những dấu vết móng cột thời Trần chúng ta có thể thấy mặt bằng kiến trúc hình chữ nhật là kiểu mặt bằng phổ biến nhất của các công trình kiến trúc thời kỳ này.

Tương tự như móng cột thời Lý, trong thành phần vật liệu cấu tạo của móng cột thời Trần cũng thấy sự có mặt của các loại vật liệu như đất sét, gạch, ngói, sỏi, sành, gốm, bao nung. Ngoài ra, người thời Trần cũng đã sử dụng phổ biến hơn đá cuội và bắt đầu đưa đá khối vào móng cột.

Thời Trần cũng tồn tại các kỹ thuật cơ bản tạo móng kiến trúc đó là đổ-đầm, xếp móng. Đối với loại hình móng cột, các lớp vật liệu về cơ bản vẫn được đầm thành lớp nhưng không được đầm chặt, quy chỉnh như móng cột thời Lý

 

71

9

Giá trị văn hóa khảo cổ học Tây Yên Tử và một vài định hướng bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá trị

NGUYỄN VĂN ĐÁP

Hệ thống di tích chùa thời Lý - Trần khu vực Tây Yên Tử thuộc địa bàn các huyên Lục Nam và Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang bao gồm: chùa chùa Hồ Bấc, chùa Cao và chùa Đám Trì chùa Am Vãi, chùa Hòn Tháp, chùa Bình Long, chùa Khám Lạng, chùa Đồng Vành...

Các cuộc khảo sát khai quật khảo cổ học gần đây tại các di tích chùa này đã cung cấp thêm nhiều thông tin cho việc nghiên cứu, phục dựng các giá trị lịch sử, văn hóa liên quan đến Phật giáo và Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử thời Trần.

Dựa trên thực trạng các di tích, tác giả đề xuất các phương án bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị cho các di tích này”.

82

10

Sự chuyển biến của tháp mộ thời Lê Trung hưng sang thời Nguyễn

MAI THÙY LINH

Tháp là một loại hình kiến trúc đặc biệt phản ánh phong tục chôn cất và là nơi tiến hành các nghi thức tế lễ, thờ cúng các bậc cao tăng trụ trì trong các chùa. Việc nghiên cứu loại hình di tích này không chỉ đóng góp vào việc tìm hiểu về kiến trúc mà còn cung cấp những thông tin quan trọng về lịch sử, văn hóa, tôn giáo và tín ngưỡng.

Bài viết tiến hành nghiên cứu so sánh tháp mộ thời Lê Trung hưng với tháp mộ thời Lý - Trần trước đó và tháp mộ thời Nguyễn sau này. Từ đó tìm hiểu sự chuyển biến trên các khía cạnh về vật liệu xây dựng, cấu trúc, nghệ thuật trang trí tháp mộ cũng như các bối cảnh xã hội và tôn giáo của các thời kỳ lịch sử trên.

93

CONTENTS

No

 

Page

1

New data of stratigraphy and settlement patterns at Sủa Cán Tỷ prehistoric site (Hà Giang province)

NGUYỄN TRƯỜNG ĐÔNG

“The Sủa Cán Tỷ site, located at Cán Tỷ hamlet, Cán Tỷ commune, Quản Bạ district, Hà Giang province, was found in 2000 and excavated in 2013. It included 3 excavated trenches in 100m2 area. Its stratum consists of two separated layers: the upper deposited layer and the power clay layer. The artifacts lied completely in the deposited layer, which probably mean they had fallen down from the mountain cliff some time. The found artifacts include nearly 200 items, all of which are chopped pebbles mainly of Sơn Vi style, flakes, and a small number of Hòa Bình-styled tools.
This is a cultural remain of the late Neolithic inhabitants with the mobile living model to exploit food source
”.

3

2

Ancient human bones at Diêm cave (Thanh Hóa province)

TRƯƠNG HỮU NGHĨA, NGUYỄN ANH TUẤN

“Diêm Cave, located at Sánh village, Thành Yên commune, Thạch Thành district, Thanh Hóa province was found in 2012 and excavated in the group of Vietnamese – Russian cooperation. The stratum of the excavated trench was 1.8m thick, including three cultural layers, which of which consisted of a burial. The two burials from the upper and the middle cultural layers belonged to 5 individuals whose remained bones were badly broken; some were burnt, they might have been secondary burials.

 The human bones from the earliest cultural layer remain fairly intact. The positions of the skeletons remain in the surgical postures, which demonstrate that the deceased had been buried in the posture of the flexed leg. The anthropological components have been preliminarily identified with Mongoloid factors but containing Australoid or Melanesian factors. This is one of a few burial sites of rare style from the ending stage of the late Pleistocene in Việt Nam”.

11

3

Huổi Han site (Lai Châu province) – Data and perception

LÊ HẢI ĐĂNG

“The Huổi Han site (Mường Tè town, Mường Tè district, Lai Châu province) was found in 2012 and excavated in 2014. The site stratum was over 1m thick, in which the cultural layer was fairly intact, about 55cm - 65cm thick. The relics found in the excavated trenches include fireplaces and places for stone making. The found artifacts consist of stone tools, mainly including chopped tools, flakes, pestles, choppers, a wholly-polished axe, a pre-formed bracelet and some grinding stones. The estimated date of the site is c. 4,500 BP – 4,000 BP, belonging to the Neolithic – early Metal Age. This site’s characteristics are similar to those of the system of site distribution in the area with the reservation of chopping tradition in the late Neolithic context in the northwestern part of Northern   Viet Nam”.

22

4

Classification and dating of bronze drums from Khánh Hòa province

NGUYỄN PHÚC CẦN

               “The collection of bronze drums found from Khánh Hòa province consists of 5 fairly intact drums that are possible to be studied. From the forms, decorative designs, accompanied objects and the classification of the bronze drums by the previous researchers, the authors have classified the drums from Khánh Hòa into some following groups, types and dates:

              - The group A1 (Heger I) includes Đông Sơn-culture drums, with 3 items: Đại Cát I, Đại Cát II and Đại Mỹ drums, dated from the sixth century to the third century BC.

              -  The group B2 includes 2 drums: Nha Trang I and Nha Trang II drums, dated from the fourth century BC to the first century AD”.

30

5

Maritime archaeology in Quảng Nam and Quảng Ngãi

BÙI VĂN LIÊM, BÙI VĂN HIẾU

“Potentiality of underwater archaeology in particular and maritime archaeology in Quảng Nam and Quảng Ngãi is extremely great. The system of rivers, canals and arroyos in these two provinces is fairly dense; along the sea coast, there are many seaports and bays, which are favorable for ships and boats to travel and they also lie in the trade route on sea in the regions with famous seaports in the history. They include enough main types of relics and research objects for maritime archaeology such as ancient trade ports, sunken ships, and workshops for making ships and boats and the communities of fishers with their development history through thousands of years. 

However, the maritime archaeology in this area has not developed as well as its potentiality and it is even facing the dangers of vandalism. Therefore, the systematic research into underwater or flooded sites and the relationships between them and the inland sites in these areas in the larger space and time is a vital task to set up a base for possible plans of protection, conservation and valorization of their values”.

 

37

6

Research on the stele of Đào Hoàng shrine (Thanh Hoài commune, Thuận Thành district, Bắc Ninh province)

PHẠM LÊ HUY

“At the Đào Hoàng shrine (Thanh Hoài commune, Thuận Thành district, Bắc Ninh province today), there is an ancient stele that has been found and studied since 2013. It has been dated to Kiến Hưng 2 preriod (314). In Nguyên Gia the twenty-seventh  (450), when  Đào Trân Chi, the descendent of Đào Hoàng, had the shrine built, following the order of the Giao Châu Jiaozhou governor Tiêu Cảnh Hiến, who had inscribed the second epigraphical characters at its back.

From the study on these second epigraphical characters and the comparison with the historical data, the author has edited the stele content, from which he has clarified some human characters, locations and historical events in Việt Nam during the fourth century to the fifth century.

The epigraphical characters on the Đào Hoàng shrine are invaluable historical source. This source suggests a possibility that the ancient Lũng Khê citadel was itself the Long Biên citadel built by the governor Đào Hoàng at the end of the third century”.

48

7

About some systems of water drainage at 18 Hoàng Diệu, the centre of Thăng Long Imperial Citadel

NGUYỄN HỒNG KIÊN, NGUYỄN VĂN MẠNH

“The paper refers to the system of water drainage from pre-Thăng Long and the Lý periods found at 18 Hoàng Diệu Street, the centre of the Thăng Long Imperial citadel.

Therefrom, the authors suppose that the traces of the drainage system around the construction enable us to identify the plan scales of its sites. The systems, "water flows" all mainly served as water drainage, whereas the defensive function, if there was, was just militarily secondary as these systems were all found in the forbidden Citadel, the military defense was not much significant.

In fact, we can see that the area of the Thăng Long Imperial citadel is low, not completely deposited. Therefore, without a good drainage system, people could not live there. The ancient architects/builders were "adaptable to the nature" in their thinking when they were based on the systems of rivers/ponds to build their systems of sewers and water drainage”.

 

60

8

Pillar bases of Trần period on the basis of archaeological data

BÙI VĂN HIẾU

“Under the technical angle, the traditional Vietnamese architecture includes constructions with wooden supporting frames that were mainly supporting pillars.

From the research on the traces of pillar bases from the Trần period, we can see that the rectangular architectural plans are most popular for the architectural constructions in the Trần period.

Similar to the Lý-period pillar bases, in the materials of the Trần’s ones, there are clay, bricks, tiles, gravels, stoneware and sagas. In addition, gravels were more popularly used and blocks of rocks were started to be used for building pillar bases.

Some basic techniques for building architectural bases also existed in the Trần period such as loading-ramming and arranging techniques. In terms of pillar-base type, the material layers were basically rammed to form but not as tightly and standardized as those of the Lý period”. 

 

71

9

Archaeological values of western Yên Tử sites and some orientations of preservation, endorsement, and valorization

NGUYỄN VĂN ĐÁP

“The system of the pagoda sites from the Lý - Trần period in the western Yên Tử area in the locations of the Lục Nam and Lục Ngạn districts, Bắc Giang province includes: the Hồ Bấc, Cao,  Đám Trì, Am Vãi, Hòn Tháp, Bình Long, Khám Lạng, Đồng Vành pagodas, etc.

The resent archaeological investigations and excavations at these pagodas provide more information for the research and restoration of the historical and cultural values related to Buddhism and the Trần-period Zen school of Trúc Lâm Yên Tử.

Based on the current statuses of these sites, the author proposes plans for preservation, endorsement and valorization of these sites”.

82

10

Changes of burial stupas from Lê Trung hưng period to Nguyễn period

MAI THÙY LINH

“Stupas are special architecture reflecting burial customs and serve as places for running sacrifices and worship by the eminent monks managing the pagodas. The research into these sites not only contributes to further understanding of their architecture but also provides important historical, cultural, religious and superstitious information.

The paper refers to the comparative research into the burial stupas of the Lê Trung Hưng period and those from the Lý - Trần period before it and the Nguyễn period after it. Therefrom, the author studies the changes in building materials, structure, decorative art on burial stupas as well as the social and religious backgrounds of the historical periods”.

93

TÒA SOẠN VÀ TRỊ SỰ

61- Phan chu trinh - Hà Nội

Tel: 04. 9330732, Fax: 04. 9331607

Email: 

Viện trưởng Viện Khảo cổ học gửi thư chúc mừng tới cán bộ, công chức, viên chức và người lao động nhân ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam18/5

 

 

THƯ CHÚC MNG

 

            Kính gửi: Cán bộ công chức, viên chức và người lao động Viện Khảo cổ học

 

            Nhân dịp ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam 18/5, tôi xin được gửi lời tri ân đến tất cả cán bộ công chức, viên chức và người lao động Viện Khảo cổ học, những người hiện đang làm việc và đã nghỉ hưu, các cộng tác viên trong nước và nước ngoài, các tổ chức và cá nhân đã có những hành động thiết thực, cụ thể trong những năm qua đối với sự phát triển của Viện Khảo cổ học.

          Những thành tựu mà Viện Khảo cổ học có được ngày hôm nay đều in dấu ấn của các thế hệ những người làm công tác khảo cổ học, các nhà nghiên cứu, các chuyên viên, quay phim viên, họa sĩ, biên tập viên, thư viện viên,..đó là thành quả, là niềm tự hào chung của tất cả chúng ta.

          Thay mặt Lãnh đạo Viện Khảo cổ học, xin kính chúc toàn thể cán bộ, công chức, viên chức và người lao động các thế hệ của Viện sức khỏe, hạnh phúc, may mắn và thành công trong mọi công việc của mình.


                                                                                               Viện trưởng Viện Khảo cổ học

                                                                                                      Nguyễn Giang Hải

 

 
 
 
Tin liên quan:
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Phát hiện bộ xương có thể làm sáng tỏ bí mật Cánh đồng Chum

 

 

Trong nhiều thập kỷ, các nhà sử học và khảo cổ cố gắng tìm ra bí mật ẩn sau di chỉ, nơi hàng nghìn chum đá nằm rải rác dọc cao nguyên Xieng Khouang của Lào, theo International Business Times. Các nhà khoa học tiến gần đến mục tiêu lý giải sự tồn tại của Cánh đồng Chum, một trong những địa điểm khảo cổ bí ẩn nhất ở châu Á khi phát hiện nơi mai táng cổ đại trong khu vực.

 Cánh đồng Chum ở Xieng Khouang, Lào.
Cánh đồng Chum ở Xieng Khouang, Lào. (Ảnh: ANU).

Phát hiện mới nhất của nhóm nghiên cứu đến từ Đại học Quốc gia Australia (ANU) nằm trong dự án khai quật toàn diện đầu tiên tại khu vực từ thập niên 1930. Nhóm nghiên cứu đứng đầu là tiến sĩ Dougald O`Reilley, tìm thấy nhiều bộ xương 2.500 năm tuổi ở một trong 90 vị trí tạo nên Cánh đồng Chum. Nhóm của O`Reilley hy vọng phát hiện sẽ giúp làm sáng tỏ mục đích ra đời của những chiếc chum.

Vào những năm 1930, nhà khảo cổ học người Pháp Madeleine Colani, người đầu tiên phát hiện Cánh đồng Chum, cho rằng di chỉ thời đồ sắt này gắn liền với tập tục mai táng của người tiền sử. Những chum đá với số lượng từ 1 đến 400 ở mỗi vị trí và chiều cao 1 - 3 mét, nhằm lưu giữ hài cốt hỏa táng. Phát hiện mới củng cố giả thuyết của Colani và các nhà khảo cổ hy vọng nó có thể mở rộng hiểu biết của họ về tập tục chôn cất cổ đại tại khu vực.

Nhóm của O`Reilley nhận thấy ba kiểu mai táng khác nhau trong quá trình khai quật. "Có những hồ chất đầy xương người với một phiến đá vôi lớn đặt bên trên. Ở kiểu khác, bộ xương được đặt trong vại gốm. Công tác khai quật cũng hé lộ lần đầu tiên về kiểu chôn cất cơ bản ở một vị trí, trong đó có một người chết nằm trong ngôi mộ", O`Reilley nói.

Bằng chứng đầu tiên về cách chôn cất cơ bản ở Cánh đồng Chum.
Bằng chứng đầu tiên về cách chôn cất cơ bản ở Cánh đồng Chum. (Ảnh: ANU).

"Không thể đánh giá thấp tầm quan trọng của phát hiện mới. Đây sẽ là khởi đầu cho kỷ nguyên mới, làm sáng tỏ bí mật Cánh đồng Chum", Lia Genovese, nhà nghiên cứu về Cánh đồng Chum, nhận định.

"Những bộ xương tìm thấy trong cuộc khai quật chứng thực chức năng nghĩa địa của cánh đồng, nhưng chức năng của các chum đá vẫn còn là điều bí ẩn. Chum nặng nhất tạc từ đá sa thạch liền khối nặng khoảng 32 tấn theo ước tính của nhà địa chất học người Anh Jeremy Baldock", Genovese, giảng viên di sản văn hóa Đông Nam Á, cho biết.

Một giả thuyết do O`Reilly đưa ra là những chiếc chum đá thực chất dùng cho quá trình phân hủy. Vị giáo sư cho rằng sau khi kết thúc quá trình, bộ xương được chôn cất gần đó.

"Phân tích trong phòng thí nghiệm, bao gồm xác định niên đại bằng đồng vị carbon, sẽ mở rộng đáng kể hiểu biết của chúng ta về khu vực này, về cộng đồng cổ đại và phong tục của họ, trong đó có tập tục chôn cất. Tôi tin chắc kết quả phát hiện sẽ cũng cố vị trí của Cánh đồng Chum trong khảo cổ học Đông Nam Á", Genovese chia sẻ.

Theo VnExpress

 
 

Trang


61 Phan Chu Trinh, Hoàn Kiếm, Hà Nội

+8424 38255449
Copyright © 2016 by khaocohoc.gov.vn.
Thiết kế bởi VINNO
Tổng số lượt truy cập: 9854095
Số người đang online: 9