Sự tiến hóa của bàn tay người cho thấy việc sử dụng công cụ sớm hơn so với những ghi chép trước đây
Nghiên cứu mới gần đây được công bố—“Hoạt động thủ công giống người ở Australopithecus” (Tạp chí Tiến hóa người, Số 196, tháng 11 năm 2024)—chỉ ra rằng việc sản xuất và sử dụng các công cụ đã diễn ra sớm hơn so với những gì đã được ghi chép trước đây.
Cho đến nghiên cứu mới này, các công cụ bằng đá chưa được tìm thấy có liên quan trực tiếp đến các thành viên nhánh người đầu tiên thuộc chi Australopithecus, ngoại trừ các thành viên của chi Homo, (H. habilis), tiến hóa từ Australopithecus. Do đó, mặc dù người ta cho rằng việc chế tạo và sử dụng công cụ có nguồn gốc sớm hơn, nhưng vẫn thiếu bằng chứng cụ thể. Có khả năng các công cụ và hiện vật khác làm từ vật liệu hữu cơ (ví dụ: gỗ, da động vật) đã được đưa vào công nghệ hominin sớm nhất. Tuy nhiên, vì những vật liệu như vậy bị phân hủy theo thời gian nên chúng hiếm khi, nếu có, được tìm thấy ở các địa điểm khảo cổ học sớm.
Eberhard Karls và các đồng nghiệp tại Đại học Tubingen, Đức đã sử dụng một phương pháp gián tiếp để xác định bằng chứng về việc chế tạo và sử dụng công sơ khai. Họ bắt đầu bằng việc quan sát rằng việc chế tạo công cụ đòi hỏi rất nhiều sự khéo léo của bàn tay và mặc dù cả vượn và người đều có bàn tay, và vượn sử dụng một số công cụ rất đơn giản (gậy và đá với ít hoặc không có sự tu chỉnh), chúng không thể hiện sự tinh vi trong chế tạo công cụ như con người. Các nhà nghiên cứu đưa ra giả thuyết rằng có thể có sự khác biệt về mặt vật lý trong giải phẫu của bàn tay tương ứng của chúng phản ánh sự thích nghi tiến hóa với việc chế tạo công cụ mà giống người đã trải qua.
So sánh các xương ngón tay được chọn – người hiện đại (đổ bóng tối) và tinh tinh (đổ bóng sáng hơn).
Các mảng màu là vị trí bám cơ, lớn hơn và nổi bật hơn ở người. [Ảnh của Jana Kunze, Katerina Harvati, Gerhard Hotz, Fotios Alexandros Karakostis / CC BY 4.0]
Nhóm các nhà khoa học đã tiến hành kiểm tra chi tiết các dấu vết của các điểm bám cơ trên hóa thạch xương bàn tay (xương ngón tay), được chỉ ra bởi sự khác biệt về độ cao bề mặt, màu sắc và kết cấu bề mặt, từ ba loài người sớm: Australopithecus sediba (A. sediba) niên đại 1.98 triệu năm và A. afarensis (3.9-2.9 mya) và A. africanus (3.3-2.1 mya), và so sánh chúng với loài vượn và người hiện đại.
Sử dụng dữ liệu này, các nhà nghiên cứu đã xây dựng mô hình 3D bàn tay của từng loài. Nghiên cứu tập trung vào các bằng chứng khác nhau về việc sử dụng được phản ánh trong các điểm bám cơ trên các xương này vì chúng sẽ cung cấp dấu hiệu về mức độ khéo léo được chỉ ra bởi mức độ sử dụng bàn tay của các loài khác nhau.
Các mẫu của hai loài Australopithecus là A. sediba, có niên đại khoảng 1,98 triệu năm trước (mya) và A. afarensis (3,9-2,9 mya) được phát hiện có các kiểu sử dụng phản ánh ở các điểm bám cơ tương tự nhưng không giống hệt với các điểm bám cơ của người hiện đại. Loài còn lại—A. africanus (3,3-2,1 mya)—thể hiện sự kết hợp các đặc điểm bao gồm cả kiểu vượn và kiểu người hiện đại. Các khoảng thời gian theo niên đại khác nhau cho thấy mức độ thích nghi khác nhau đối với sự phụ thuộc vào công nghệ giữa các loài. Điều này cho thấy các loài hominin ban đầu khác nhau thể hiện mức độ sử dụng công nghệ khác nhau, có lẽ là do sự thích nghi sinh thái khác nhau.
Kết quả cho thấy:
1) điểm tương đồng giữa mẫu vật của Australopithecus và con người hiện đại, trái ngược với loài vượn, ủng hộ cho cách giải thích rằng những người sớm đầu tiên này rõ ràng có khả năng thao tác tinh vi cần thiết để sản xuất và sử dụng các công cụ bằng đá và
2) có sự khác biệt về mặt này giữa các loài người sớm đầu tiên khác nhau, cho thấy bằng chứng về sự thích nghi tiến hóa đa dạng.
Các nhà nghiên cứu kết luận rằng “Việc kích hoạt thường xuyên các cơ cần thiết để thực hiện các thao tác cầm nắm và điều khiển giống người đặc trưng ở những loài người đầu tiên này ủng hộ cho quan niệm rằng việc sử dụng bàn tay giống người đã xuất hiện trước và có thể ảnh hưởng đến các quá trình thích nghi tiến hóa để có sự khéo léo bằng tay cao hơn ở các loài người sau này”.
Ý nghĩa của những phát hiện này là sự phát triển của công nghệ công cụ bằng đá mà tổ tiên loài người ngày càng phụ thuộc vào đã bắt đầu sớm hơn nhiều so với những gì đã biết trước đây. Hơn nữa, sự phát triển của khả năng này là chìa khóa cho sự tiến hóa của nhánh người ngay từ khi mới xuất hiện, khác biệt với các loài vượn.
Các mẫu công cụ bằng đá thực tế sớm nhất mà các nhà khảo cổ học biết đến có niên đại khoảng 3,3 triệu năm trước nhưng không có hóa thạch người liên quan, vì vậy người chế tạo chúng không được biết đến. Bằng chứng gián tiếp về việc sử dụng công cụ bằng đá dưới dạng vết cắt trên xương có từ sớm hơn một chút—khoảng 3,4 triệu năm trước. Nghiên cứu mới này ủng hộ mạnh mẽ cách giải thích rằng các loài Australopithecus có khả năng chế tạo những công cụ bằng đá sớm nhất này, trước khi xuất hiện chi Homo, vào khoảng 2,4 triệu năm trước.
Ý nghĩa rộng hơn của nghiên cứu này là sự tiến hóa về công nghệ giữa các tổ tiên loài người đã bắt đầu từ rất lâu trước khi bằng chứng vật lý về công cụ bằng đá được phát hiện cho đến nay. Hơn nữa, sự phát triển và sử dụng các công nghệ ngày càng tinh vi không chỉ đòi hỏi sự thích nghi về kỹ năng vận động mà còn cả về nhận thức.
Sự tiến hóa của công nghệ công cụ bằng đá và ngôn ngữ có thể đã được liên kết theo phương pháp biện chứng. Do đó, tính trung tâm của công nghệ đối với quá trình tiến hóa của con người được củng cố. Đây không phải là một ý tưởng mới. Hơn một trăm năm trước, Frederick Engels đã viết điều này trong “Vai trò của lao động trong quá trình chuyển đổi từ vượn sang người”:
“Nhưng chính ở đây, người ta mới thấy được khoảng cách lớn đến thế nào giữa bàn tay chưa phát triển của ngay cả loài vượn giống người nhất và bàn tay con người đã được hoàn thiện cao độ nhờ lao động trong hàng trăm nghìn năm. Số lượng và sự sắp xếp chung của xương và cơ ở cả hai đều giống nhau; nhưng bàn tay của người có thể thực hiện hàng trăm thao tác mà không bàn tay khỉ nào có thể bắt chước được. Không có bàn tay vượn nào có thể tạo ra được con dao đá thô sơ nhất.”
Người dịch: MT
Nguồn tham khảo:
https://www.wsws.org/en/articles/2024/10/21/bhlz-o21.html?fbclid=IwY2xjawGarwlleHRuA2FlbQIxMQABHVi1CGQhd2YRTq1rR8J7vCwrnwPm0ItSoPT0ugUiAOJXeipJTjXLPlIuqw_aem_hBcnu2yB5qjHVS3p17AnHg
Cho đến nghiên cứu mới này, các công cụ bằng đá chưa được tìm thấy có liên quan trực tiếp đến các thành viên nhánh người đầu tiên thuộc chi Australopithecus, ngoại trừ các thành viên của chi Homo, (H. habilis), tiến hóa từ Australopithecus. Do đó, mặc dù người ta cho rằng việc chế tạo và sử dụng công cụ có nguồn gốc sớm hơn, nhưng vẫn thiếu bằng chứng cụ thể. Có khả năng các công cụ và hiện vật khác làm từ vật liệu hữu cơ (ví dụ: gỗ, da động vật) đã được đưa vào công nghệ hominin sớm nhất. Tuy nhiên, vì những vật liệu như vậy bị phân hủy theo thời gian nên chúng hiếm khi, nếu có, được tìm thấy ở các địa điểm khảo cổ học sớm.
Eberhard Karls và các đồng nghiệp tại Đại học Tubingen, Đức đã sử dụng một phương pháp gián tiếp để xác định bằng chứng về việc chế tạo và sử dụng công sơ khai. Họ bắt đầu bằng việc quan sát rằng việc chế tạo công cụ đòi hỏi rất nhiều sự khéo léo của bàn tay và mặc dù cả vượn và người đều có bàn tay, và vượn sử dụng một số công cụ rất đơn giản (gậy và đá với ít hoặc không có sự tu chỉnh), chúng không thể hiện sự tinh vi trong chế tạo công cụ như con người. Các nhà nghiên cứu đưa ra giả thuyết rằng có thể có sự khác biệt về mặt vật lý trong giải phẫu của bàn tay tương ứng của chúng phản ánh sự thích nghi tiến hóa với việc chế tạo công cụ mà giống người đã trải qua.
So sánh các xương ngón tay được chọn – người hiện đại (đổ bóng tối) và tinh tinh (đổ bóng sáng hơn).
Các mảng màu là vị trí bám cơ, lớn hơn và nổi bật hơn ở người. [Ảnh của Jana Kunze, Katerina Harvati, Gerhard Hotz, Fotios Alexandros Karakostis / CC BY 4.0]
Nhóm các nhà khoa học đã tiến hành kiểm tra chi tiết các dấu vết của các điểm bám cơ trên hóa thạch xương bàn tay (xương ngón tay), được chỉ ra bởi sự khác biệt về độ cao bề mặt, màu sắc và kết cấu bề mặt, từ ba loài người sớm: Australopithecus sediba (A. sediba) niên đại 1.98 triệu năm và A. afarensis (3.9-2.9 mya) và A. africanus (3.3-2.1 mya), và so sánh chúng với loài vượn và người hiện đại.
Sử dụng dữ liệu này, các nhà nghiên cứu đã xây dựng mô hình 3D bàn tay của từng loài. Nghiên cứu tập trung vào các bằng chứng khác nhau về việc sử dụng được phản ánh trong các điểm bám cơ trên các xương này vì chúng sẽ cung cấp dấu hiệu về mức độ khéo léo được chỉ ra bởi mức độ sử dụng bàn tay của các loài khác nhau.
Các mẫu của hai loài Australopithecus là A. sediba, có niên đại khoảng 1,98 triệu năm trước (mya) và A. afarensis (3,9-2,9 mya) được phát hiện có các kiểu sử dụng phản ánh ở các điểm bám cơ tương tự nhưng không giống hệt với các điểm bám cơ của người hiện đại. Loài còn lại—A. africanus (3,3-2,1 mya)—thể hiện sự kết hợp các đặc điểm bao gồm cả kiểu vượn và kiểu người hiện đại. Các khoảng thời gian theo niên đại khác nhau cho thấy mức độ thích nghi khác nhau đối với sự phụ thuộc vào công nghệ giữa các loài. Điều này cho thấy các loài hominin ban đầu khác nhau thể hiện mức độ sử dụng công nghệ khác nhau, có lẽ là do sự thích nghi sinh thái khác nhau.
Kết quả cho thấy:
1) điểm tương đồng giữa mẫu vật của Australopithecus và con người hiện đại, trái ngược với loài vượn, ủng hộ cho cách giải thích rằng những người sớm đầu tiên này rõ ràng có khả năng thao tác tinh vi cần thiết để sản xuất và sử dụng các công cụ bằng đá và
2) có sự khác biệt về mặt này giữa các loài người sớm đầu tiên khác nhau, cho thấy bằng chứng về sự thích nghi tiến hóa đa dạng.
Các nhà nghiên cứu kết luận rằng “Việc kích hoạt thường xuyên các cơ cần thiết để thực hiện các thao tác cầm nắm và điều khiển giống người đặc trưng ở những loài người đầu tiên này ủng hộ cho quan niệm rằng việc sử dụng bàn tay giống người đã xuất hiện trước và có thể ảnh hưởng đến các quá trình thích nghi tiến hóa để có sự khéo léo bằng tay cao hơn ở các loài người sau này”.
Ý nghĩa của những phát hiện này là sự phát triển của công nghệ công cụ bằng đá mà tổ tiên loài người ngày càng phụ thuộc vào đã bắt đầu sớm hơn nhiều so với những gì đã biết trước đây. Hơn nữa, sự phát triển của khả năng này là chìa khóa cho sự tiến hóa của nhánh người ngay từ khi mới xuất hiện, khác biệt với các loài vượn.
Các mẫu công cụ bằng đá thực tế sớm nhất mà các nhà khảo cổ học biết đến có niên đại khoảng 3,3 triệu năm trước nhưng không có hóa thạch người liên quan, vì vậy người chế tạo chúng không được biết đến. Bằng chứng gián tiếp về việc sử dụng công cụ bằng đá dưới dạng vết cắt trên xương có từ sớm hơn một chút—khoảng 3,4 triệu năm trước. Nghiên cứu mới này ủng hộ mạnh mẽ cách giải thích rằng các loài Australopithecus có khả năng chế tạo những công cụ bằng đá sớm nhất này, trước khi xuất hiện chi Homo, vào khoảng 2,4 triệu năm trước.
Ý nghĩa rộng hơn của nghiên cứu này là sự tiến hóa về công nghệ giữa các tổ tiên loài người đã bắt đầu từ rất lâu trước khi bằng chứng vật lý về công cụ bằng đá được phát hiện cho đến nay. Hơn nữa, sự phát triển và sử dụng các công nghệ ngày càng tinh vi không chỉ đòi hỏi sự thích nghi về kỹ năng vận động mà còn cả về nhận thức.
Sự tiến hóa của công nghệ công cụ bằng đá và ngôn ngữ có thể đã được liên kết theo phương pháp biện chứng. Do đó, tính trung tâm của công nghệ đối với quá trình tiến hóa của con người được củng cố. Đây không phải là một ý tưởng mới. Hơn một trăm năm trước, Frederick Engels đã viết điều này trong “Vai trò của lao động trong quá trình chuyển đổi từ vượn sang người”:
“Nhưng chính ở đây, người ta mới thấy được khoảng cách lớn đến thế nào giữa bàn tay chưa phát triển của ngay cả loài vượn giống người nhất và bàn tay con người đã được hoàn thiện cao độ nhờ lao động trong hàng trăm nghìn năm. Số lượng và sự sắp xếp chung của xương và cơ ở cả hai đều giống nhau; nhưng bàn tay của người có thể thực hiện hàng trăm thao tác mà không bàn tay khỉ nào có thể bắt chước được. Không có bàn tay vượn nào có thể tạo ra được con dao đá thô sơ nhất.”
Người dịch: MT
Nguồn tham khảo:
https://www.wsws.org/en/articles/2024/10/21/bhlz-o21.html?fbclid=IwY2xjawGarwlleHRuA2FlbQIxMQABHVi1CGQhd2YRTq1rR8J7vCwrnwPm0ItSoPT0ugUiAOJXeipJTjXLPlIuqw_aem_hBcnu2yB5qjHVS3p17AnHg
Thông báo
Thứ tư, 12 Tháng 6 2024- 09:59
Thứ bảy, 27 Tháng 5 2023- 14:12
Thứ hai, 06 Tháng 6 2022- 10:10
Thứ tư, 23 Tháng 3 2022- 14:57
Thứ ba, 07 Tháng 9 2021- 16:38
Thư viện
- Tác giả: Viện Khảo cổ học
- Nhà xb: Khoa học xã hội - 2024
- Số trang: 1358tr
- Khổ: 19x27cm
- Tác giả: Trương Khởi Chi (Chủ biên)
- Nhà xuất bản: Đại học Quốc gia Hà Nội
- Năm xb: 2021
- Khổ sách: 16 x 24
- Số trang: 661 trang
- Tác giả: Bảo tàng tỉnh Thanh Hóa
- Nhà xuất bản: Thanh Hóa – 2020
- Số trang: 212 tr
- Khổ sách: 21 x 29,7cm
- Tác giả:
GS.TS. Nguyễn Hữu Minh
PGS.TS. Phan Thị Mai Hương
PGS.TS. Vũ Thị Thanh Hương
PGS.TS. Vũ Mạnh Lợi
- Năm xuất bản: ...
- Tác giả: Paul Ory
- Người dịch: Phạm Văn Tuân
- Nhà xb: Dân Trí, 2019
- Khổ: 14 x 20,5
- Số trang: 164tr
- Tác giả :TS.Trần Thị Phương Hoa (Chủ biên), Viện sử học
- Năm xuất bản: 2023
- Số trang: 432tr
- Tác giả: Viện KHXH vùng Nam Bộ
- Năm xuất bản: 2023
- Nhà xb:Lao Động
- Số trang: 500
- Tác giả : TS. Lý Hoàng Mai (Chủ biên)
- Năm xuất bản: 2022
- Số trang: 244
Tạp chí
Phần 3: KCH sơ sử và nhà nước sớm
Khảo cổ học số 2/2024
Khảo cổ học số 1/2024
Khảo cổ học số 1/2024
Huyện Hoàng Su Phì và Xín Mần nằm ở phía tây tỉnh Hà Giang, cách thành phố Hà Giang 100 - 150 km về phía tây; phía bắc giáp tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, phía tây giáp tỉnh Lào Cai, phía đông giáp huyện Vị Xuyên và huyện Bắc Quang, phía nam giáp huyện Quang Bình.
Phần 2: Khảo cổ học Tiền sử
Phần 1: Vấn đề chung
Tin tức khác
06 Th12 2024 10:30
04 Th12 2024 17:52
02 Th12 2024 14:27
15 Th11 2024 16:09
15 Th11 2024 14:46
08 Th11 2024 15:34
Copyright © 2016 by khaocohoc.gov.vn.
Thiết kế bởi VINNO
Tổng số lượt truy cập: 9080095
Số người đang online: 10