Kết quả khai quật mới nhất tại Di chỉ Vườn Chuối đã cung cấp thêm nhiều tư liệu mới trong nghiên cứu thời đại Kim khí ở miền Bắc Việt Nam, mặt bằng khu cư trú thời tiền Đông Sơn nằm ở vị trí cao nhất của gò Vườn Chuối, cấu trúc hình lòng chảo với rìa ngoài cao hơn bên trong khoảng 0,5m, bên ngoài khu cư trú có một vòng hào bảo vệ rộng khoảng 10m và sâu khoảng 2,5 - 3m bao quanh.
Kết quả khảo cổ cũng cho thấy, khoảng 3.500 năm trước, đã có lớp cư dân đầu tiên cư trú ở khu vực này. Sự hiện diện một điểm quần cư quy mô lớn và có niên đại kéo dài như ở Vườn Chuối là rất hiếm, cho thấy những hiểu biết rõ hơn về cách thức xử lý các không gian cư trú, phần nào phản ánh về một xã hội có tổ chức và có phân công lao động. Cuộc khai quật đã phát hiện một khu mộ táng từ thời tiền Đông Sơn rất tập trung, có niên đại dài tới hơn 2.000 năm, trong đó phát hiện 70 mộ táng tiền Đông Sơn và 40 mộ táng Đông Sơn. Cũng tại đây đã tìm thấy những dấu tích vật chất của công trình kiến trúc liên quan đến nhà ở của người Đông Sơn.
Tại di tích Gò Đất Nại (Bà Rịa - Vũng Tàu) cũng đã phát hiện 6 di tích mộ táng, trong đó có 5 mộ huyệt đất và 1 mộ vò cùng nhiều đồ tùy táng, với loại hình phổ biến nhất là đồ gốm và một số hiện vật bằng đá, kim loại thuộc 2 giai đoạn có niên đại kéo dài từ 2.500 năm cách ngày nay đến thế kỷ I - II sau Công nguyên.
Còn cuộc khai quật công xưởng chế tác vòng đá Thọ Sơn (Bình Phước), di vật phát hiện được chủ yếu là các loại hình liên quan đến hoạt động chế tác vòng đá. Niên đại tương đối của di tích khoảng 2.700 năm cách ngày nay.
Theo nhà sử học Dương Trung Quốc, những kết quả của khảo cổ học giúp chúng ta hình dung được đời sống tinh thần, vật chất của những thế hệ trước. Một cuộc khai quật không chỉ ra những cuốn sách mà còn là sự tổng hợp của tất cả những tri thức khác để có thể từ hiện vật vô tri vô giác đưa ra những thông điệp về lịch sử.
Cần được quan tâm đúng mức
Một số chuyên gia trong lĩnh vực khảo cổ và lịch sử cho rằng, nguyên nhân dẫn đến việc nhiều khảo cổ học có giá trị nhưng sau khi được phát hiện chưa có sự bảo vệ tốt và chưa phát huy được giá trị trong đời sống là do chưa được quan tâm, chú ý đúng mức. Khai quật xong thì vấn đề tuyên truyền, bảo vệ như nào là vấn đề rất lớn. Muốn làm được điều đó cần phải có cả sự chung tay của Nhà nước, chính quyền địa phương và người dân sở tại ở khu vực di tích.
Điển hình như câu chuyện Di chỉ Vườn Chuối. Đây là khu khảo cổ di chỉ đã được phát hiện từ những năm 1969. Trải qua nhiều đợt khai quật đã phát hiện nhiều dấu tích hết sức có giá trị. Tuy nhiên sau bao nhiêu năm, vấn đề bảo vệ để phát huy giá trị của khu di chỉ này trong đời sống vẫn còn “lùng nhùng”, chưa có phương án chính thức. Nhà sử học Dương Trung Quốc cho biết, đây là di chỉ đã được phát hiện từ lâu, trải qua nhiều cuộc khai quật, bất kỳ cuộc khai quật nào cũng thấy được những kết quả rất giá trị cho thấy đây là vùng cư trú dân cư từ rất cổ xưa, ít nhất là 4.000 năm.
“Di chỉ Vườn Chuối nên trở thành một công viên văn hóa. Vì gần khu Di chỉ Vườn Chuối có cả Bảo tàng Nguyễn Văn Huyên, Bảo tàng Nhiếp ảnh Lai Xá. Cùng với Di chỉ Vườn Chuối, đó sẽ trở thành cụm văn hóa thu hút đông đảo người dân, du khách đến tham quan. Tất cả sẽ mang lại lợi ích chung cho cộng đồng” - nhà sử học Dương Trung Quốc nói.
383 thông báo khoa học tại Hội thảo Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 2024 cho thấy hoạt động khảo cổ học Việt Nam mùa điền dã 2023 - 2024 diễn ra rất sôi nổi, đều khắp trên toàn quốc và đạt hiệu quả cao. Theo đánh giá của TS Hà Văn Cẩn - Phó Viện trưởng phụ trách Viện Khảo cổ học, kế thừa và phát huy thành tựu của các giai đoạn trước, trong 1 năm qua ngành khảo cổ học đã thu được những thành quả đáng ghi nhận, đóng góp tích cực vào việc nhận thức diễn trình lịch sử dân tộc Việt Nam. Khẳng định giá trị các nền văn hóa, văn minh, văn hiến của các cộng đồng cư dân cổ trên lãnh thổ Việt Nam ngày nay. Qua đó góp phần khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc trong phát triển kinh tế, xây dựng con người, văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc và sự nghiệp cách mạng của đất nước.
Hoạt động khảo cổ học diễn ra sôi động ở các địa phương trong cả nước với nhiều phát hiện có giá trị. Song vấn đề bảo tồn và phát huy các giá trị đó như thế nào trong đời sống hiện nay lại đang nhận được sự quan tâm đặc biệt của dư luận và các nhà khoa học. Bởi, có những phát hiện về khảo cổ có giá trị rất lớn đã được phát hiện, nhưng đến nay vẫn chưa có phương án bảo vệ.
Phát biểu khai mạc Hội thảo, PGS.TS Nguyễn Đức Minh, Phó viện trưởng Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam khẳng định, Hội thảo khảo cổ học là hoạt động khoa học quan trọng hằng năm của ngành khảo cổ học, là diễn đàn để giới nghiên cứu khảo cổ học và nhiều ngành khoa học có liên quan gặp gỡ, trao đổi thông tin về những phát hiện mới, tranh luận học thuật, mở ra các cơ hội hợp tác nghiên cứu, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa của dân tộc. Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam luôn tin tưởng, đánh giá cao nỗ lực của Viện Khảo cổ học cùng các cơ quan hữu quan trong gần 60 năm qua đã tổ chức thành công các hội thảo hằng năm cũng như thực hiện tốt nhiều nhiệm vụ chuyên môn quan trọng.
![]() |
PGS.TS Nguyễn Đức Minh, Phó chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam phát biểu khai mạc hội thảo. |
Phát biểu đề dẫn Hội thảo, PGS, TS Hà Văn Cẩn, Phó viện trưởng phụ trách Viện Khảo cổ học cho biết, một năm qua, ngành khảo cổ học đã thu được những thành quả đáng ghi nhận, đóng góp tích cực vào việc nhận thức diễn trình lịch sử dân tộc Việt Nam, khẳng định giá trị các nền văn hóa, văn minh, văn hiến của các cộng đồng dân cư cổ trên lãnh thổ Việt Nam ngày nay, góp phần khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, ý chí tự cường dân tộc trong phát triển kinh tế, xây dựng con người, văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
![]() |
Đông đảo các nhà khoa học tham dự hội thảo |
Trình bày “Hoạt động khảo cổ học Việt Nam 2 năm 2023-2024”, PGS, TS Bùi Văn Liêm, Nghiên cứu viên cao cấp, Tổng biên tập Tạp chí Khảo cổ học nhấn mạnh: “Hội thảo đã nhận được 383 bài, trong đó có 7 bài về các hoạt động chung, 36 bài về khảo cổ học Tiền sử, 63 bài khảo cổ học Sơ sử và Nhà nước sớm, 221 bài khảo cổ học về Lịch sử, 50 bài khảo cổ học Champa-Óc Eo và 6 bài khảo cổ học Dưới nước. 383 thông báo tại Hội thảo cho thấy hoạt động khảo cổ học Việt Nam mùa điền dã 2023-2024 diễn ra rất sôi nổi, đều khắp trên toàn quốc và đạt hiệu quả cao. Nhiều báo cáo được thực hiện công phu, nghiêm túc có nội dung phong phú. Đó chính là những thông tin khoa học mới bổ sung cứ liệu giúp nhà khoa học đi sâu nghiên cứu những vấn đề cơ bản của khảo cổ học Việt Nam, góp phần nhận thức rõ hơn lịch sử hình thành dân tộc Việt Nam, lịch sử hình thành và phát triển con người Việt Nam”.
Tại Hội thảo, các Tiểu ban thảo luận sâu về nội dung, loại hình tính chất, niên đại, chủ nhân, các mối liên hệ của di tích, di vật; thực trạng của di tích, phương hướng trong mục tiêu bảo vệ, bảo tồn, nghiên cứu, phát huy các giá trị lịch sử-văn hóa Việt Nam trong thời kỳ mới hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Hội thảo tổng kết và bế mạc ngày 15-11.
Tổng hợp tin tức: Nguyễn Thơ Đình
Cho đến nghiên cứu mới này, các công cụ bằng đá chưa được tìm thấy có liên quan trực tiếp đến các thành viên nhánh người đầu tiên thuộc chi Australopithecus, ngoại trừ các thành viên của chi Homo, (H. habilis), tiến hóa từ Australopithecus. Do đó, mặc dù người ta cho rằng việc chế tạo và sử dụng công cụ có nguồn gốc sớm hơn, nhưng vẫn thiếu bằng chứng cụ thể. Có khả năng các công cụ và hiện vật khác làm từ vật liệu hữu cơ (ví dụ: gỗ, da động vật) đã được đưa vào công nghệ hominin sớm nhất. Tuy nhiên, vì những vật liệu như vậy bị phân hủy theo thời gian nên chúng hiếm khi, nếu có, được tìm thấy ở các địa điểm khảo cổ học sớm.
Eberhard Karls và các đồng nghiệp tại Đại học Tubingen, Đức đã sử dụng một phương pháp gián tiếp để xác định bằng chứng về việc chế tạo và sử dụng công sơ khai. Họ bắt đầu bằng việc quan sát rằng việc chế tạo công cụ đòi hỏi rất nhiều sự khéo léo của bàn tay và mặc dù cả vượn và người đều có bàn tay, và vượn sử dụng một số công cụ rất đơn giản (gậy và đá với ít hoặc không có sự tu chỉnh), chúng không thể hiện sự tinh vi trong chế tạo công cụ như con người. Các nhà nghiên cứu đưa ra giả thuyết rằng có thể có sự khác biệt về mặt vật lý trong giải phẫu của bàn tay tương ứng của chúng phản ánh sự thích nghi tiến hóa với việc chế tạo công cụ mà giống người đã trải qua.

So sánh các xương ngón tay được chọn – người hiện đại (đổ bóng tối) và tinh tinh (đổ bóng sáng hơn).
Các mảng màu là vị trí bám cơ, lớn hơn và nổi bật hơn ở người. [Ảnh của Jana Kunze, Katerina Harvati, Gerhard Hotz, Fotios Alexandros Karakostis / CC BY 4.0]
Nhóm các nhà khoa học đã tiến hành kiểm tra chi tiết các dấu vết của các điểm bám cơ trên hóa thạch xương bàn tay (xương ngón tay), được chỉ ra bởi sự khác biệt về độ cao bề mặt, màu sắc và kết cấu bề mặt, từ ba loài người sớm: Australopithecus sediba (A. sediba) niên đại 1.98 triệu năm và A. afarensis (3.9-2.9 mya) và A. africanus (3.3-2.1 mya), và so sánh chúng với loài vượn và người hiện đại.
Sử dụng dữ liệu này, các nhà nghiên cứu đã xây dựng mô hình 3D bàn tay của từng loài. Nghiên cứu tập trung vào các bằng chứng khác nhau về việc sử dụng được phản ánh trong các điểm bám cơ trên các xương này vì chúng sẽ cung cấp dấu hiệu về mức độ khéo léo được chỉ ra bởi mức độ sử dụng bàn tay của các loài khác nhau.
Các mẫu của hai loài Australopithecus là A. sediba, có niên đại khoảng 1,98 triệu năm trước (mya) và A. afarensis (3,9-2,9 mya) được phát hiện có các kiểu sử dụng phản ánh ở các điểm bám cơ tương tự nhưng không giống hệt với các điểm bám cơ của người hiện đại. Loài còn lại—A. africanus (3,3-2,1 mya)—thể hiện sự kết hợp các đặc điểm bao gồm cả kiểu vượn và kiểu người hiện đại. Các khoảng thời gian theo niên đại khác nhau cho thấy mức độ thích nghi khác nhau đối với sự phụ thuộc vào công nghệ giữa các loài. Điều này cho thấy các loài hominin ban đầu khác nhau thể hiện mức độ sử dụng công nghệ khác nhau, có lẽ là do sự thích nghi sinh thái khác nhau.
Kết quả cho thấy:
1) điểm tương đồng giữa mẫu vật của Australopithecus và con người hiện đại, trái ngược với loài vượn, ủng hộ cho cách giải thích rằng những người sớm đầu tiên này rõ ràng có khả năng thao tác tinh vi cần thiết để sản xuất và sử dụng các công cụ bằng đá và
2) có sự khác biệt về mặt này giữa các loài người sớm đầu tiên khác nhau, cho thấy bằng chứng về sự thích nghi tiến hóa đa dạng.
Các nhà nghiên cứu kết luận rằng “Việc kích hoạt thường xuyên các cơ cần thiết để thực hiện các thao tác cầm nắm và điều khiển giống người đặc trưng ở những loài người đầu tiên này ủng hộ cho quan niệm rằng việc sử dụng bàn tay giống người đã xuất hiện trước và có thể ảnh hưởng đến các quá trình thích nghi tiến hóa để có sự khéo léo bằng tay cao hơn ở các loài người sau này”.
Ý nghĩa của những phát hiện này là sự phát triển của công nghệ công cụ bằng đá mà tổ tiên loài người ngày càng phụ thuộc vào đã bắt đầu sớm hơn nhiều so với những gì đã biết trước đây. Hơn nữa, sự phát triển của khả năng này là chìa khóa cho sự tiến hóa của nhánh người ngay từ khi mới xuất hiện, khác biệt với các loài vượn.
Các mẫu công cụ bằng đá thực tế sớm nhất mà các nhà khảo cổ học biết đến có niên đại khoảng 3,3 triệu năm trước nhưng không có hóa thạch người liên quan, vì vậy người chế tạo chúng không được biết đến. Bằng chứng gián tiếp về việc sử dụng công cụ bằng đá dưới dạng vết cắt trên xương có từ sớm hơn một chút—khoảng 3,4 triệu năm trước. Nghiên cứu mới này ủng hộ mạnh mẽ cách giải thích rằng các loài Australopithecus có khả năng chế tạo những công cụ bằng đá sớm nhất này, trước khi xuất hiện chi Homo, vào khoảng 2,4 triệu năm trước.
Ý nghĩa rộng hơn của nghiên cứu này là sự tiến hóa về công nghệ giữa các tổ tiên loài người đã bắt đầu từ rất lâu trước khi bằng chứng vật lý về công cụ bằng đá được phát hiện cho đến nay. Hơn nữa, sự phát triển và sử dụng các công nghệ ngày càng tinh vi không chỉ đòi hỏi sự thích nghi về kỹ năng vận động mà còn cả về nhận thức.
Sự tiến hóa của công nghệ công cụ bằng đá và ngôn ngữ có thể đã được liên kết theo phương pháp biện chứng. Do đó, tính trung tâm của công nghệ đối với quá trình tiến hóa của con người được củng cố. Đây không phải là một ý tưởng mới. Hơn một trăm năm trước, Frederick Engels đã viết điều này trong “Vai trò của lao động trong quá trình chuyển đổi từ vượn sang người”:
“Nhưng chính ở đây, người ta mới thấy được khoảng cách lớn đến thế nào giữa bàn tay chưa phát triển của ngay cả loài vượn giống người nhất và bàn tay con người đã được hoàn thiện cao độ nhờ lao động trong hàng trăm nghìn năm. Số lượng và sự sắp xếp chung của xương và cơ ở cả hai đều giống nhau; nhưng bàn tay của người có thể thực hiện hàng trăm thao tác mà không bàn tay khỉ nào có thể bắt chước được. Không có bàn tay vượn nào có thể tạo ra được con dao đá thô sơ nhất.”
Người dịch: MT
Nguồn tham khảo:
https://www.wsws.org/en/articles/2024/10/21/bhlz-o21.html?fbclid=IwY2xjawGarwlleHRuA2FlbQIxMQABHVi1CGQhd2YRTq1rR8J7vCwrnwPm0ItSoPT0ugUiAOJXeipJTjXLPlIuqw_aem_hBcnu2yB5qjHVS3p17AnHg

Nhà khảo cổ Philippin Vito Hernandez (thứ 2 bên phải, với camera) cũng với các nghiên cứu đồng nghiệp ở hang Tam Pà Ling phía bắc Lào ( ảnh: Macquarie University / Kira Westaway)
Các phân tích hóa thạch và trầm tích từ hang Tam Pà Ling ( Hang Khỉ ở Lào) bởi nhóm các nhà nghiên cứu quốc tế trong đó một nhà nghiên cứu Philippine trước đây đã từng giảng dạy tại đại học Philippines và hiện tại đang làm việc Phòng thí nghiệm vi khảo cổ, đại học Flinders ở Nam Úc, đã đẩy lùi khung niên đại khi chúng ta biết về loài người Homo sapiens, có mặt ở khu vực Đông Nam Á lục địa.
Các hóa thạch mới phát hiện này cung cấp bằng chứng chắc chắn về sự có mặt của người hiện đại ở bắc Lào từ 86,000 năm cách đây . Điều này gần như cổ hơn 20,000 năm so với hầu hết các bằng chứng từ các di chỉ cho đến nay được nghiên cứu ở Đông Nam Á và đã bổ sung thêm xác nhận cho sự di cư trước 60,0000 năm của người hiện đại vào khu vực Đông Á.
Vito Hernandez, nhà địa khảo cổ Philippines – thành viên của đoàn nghiên cứu đã công bố những phát hiện gần đây ở hang Tam Pà Ling cho biết:
“ Phát hiện này giúp chúng ta hiểu sâu hơn về sự phân bố của các tổ tiên trực tiếp của chúng ta tại thời điểm mà chúng ta biết về các quần thể người khác, đã tồn tại và tuyệt chủng hiện nay”.
Nghiên cứu này ở bắc Lào, trong đó một nghiên cứu trước đó về các loài người tuyệt chủng hiện nay được biết là người Denisovan 164000 -131000 cách ngày nay ở hang Tam Ngu Hao 2 (Hang Cobra) thuộc cùng dãy núi với hang Tam Pà Ling, điều đó cho gợi ý sâu sắc rằng khu vực này của Đông Nam Á là một con đường di cư người sớm. Vito Hernandez giải thích “ Điều này cũng chứng minh rằng tổ tiên loài người chúng ta đã đi dọc các khu rừng và các thung lũng ven sông, ngoài việc men theo các đảo và các bờ biển khi họ di chuyển về hướng đông đến Australia, nơi mà còn nhiều tranh luận khi cho rằng họ đã di cư từ 65,000 năm trước.”
Ông cho biết thêm: “Các phân tích về hóa thạch ở Tam Pà Ling cho thấy những người hiện đại sơ khai này là một phần của quần thể người nhập cư, nhưng liệu dòng gen của họ có tồn tại thành công trong quần thể hiện tại hay không vẫn chưa được xác định”.
Ban đầu, các hóa thạch từ Tam Pà Ling rất khó xác định niên đại, dẫn đến sự hoài nghi về các bằng chứng của hang này được đưa ra trước đó. Điều này khiến các chuyên gia địa chất và khảo cổ học của nhóm áp dụng một cách chiến lược các kỹ thuật của họ để xác định xem các trầm tích có niên đại liên quan đến hóa thạch như thế nào và xác định tuổi chính xác cho cả hai.
Vito Hernandez giải thích chi tiết:
“Việc xác định niên đại và chất lượng bảo quản hóa thạch rất quan trọng như chúng ta đã thấy từ nghiên cứu đứng đầu bởi các nhà khoa học như Giáo sư Armand Mijares tại Trường Khảo cổ học, đại học Philippin, nhưng như chúng ta cũng thấy từ nghiên cứu của chúng tôi và nghiên cứu tiến hóa khác của con người như ở hang Denisova, Nga, rất cần thiết sự hợp tác chặt chẽ giữa khoa học Trái đất và con người, nếu chúng ta muốn đạt được một bức tranh hoàn chỉnh hơn về sự tiến hóa và định cư của con người như thế nào ở các khu vực khác nhau trên thế giới,” .
Hernandez trước đây là giảng viên của Trường Khảo cổ học, Đại học Philippin, và từng tốt nghiệp Thạc sĩ Khoa học ở đây. Ông cũng quản lý các lớp Khoa học, Công nghệ và Xã hội, của trường Cao đẳng Khoa học UP Diliman (UPD-CS). Ông khẳng định rằng “Tôi hy vọng sẽ trở lại sau công việc nghiên cứu của mình ở Úc và góp phần đưa nền khoa học của chúng ta phục vụ xã hội Philippines,” .
Người dịch: MT
Nguồn tham khảo
Pinoy archaeologist helps rewrite human history in Southeast Asia (upd.edu.ph)
Freidline, S. E., Westaway, K. E., Joannes-Boyau, R., Duringer, P., Ponche, J.-L., Morley, M. W., Hernandez, V. C., McAllister-Hayward, M. S., McColl, H., Zanolli, C., Gunz, P., Bergmann, I., Sichanthongtip, P., Sihanam, D., Boualaphane, S., Luangkhoth, T., Souksavatdy, V., Dosseto, A., Boesch, Q., … Demeter, F. (2023). Early presence of Homo sapiens in Southeast Asia by 86–68 kyr at Tam Pà Ling, Northern Laos. Nature Communications, 14(1). https://doi.org/10.1038/s41467-023-38715-y
Nhóm các nhà nghiên cứu thuộc trường khảo cổ học, đại học Philippines cùng với bảo tàng quốc gia Philippine dẫn đầu bởi Ts. Xhauflair đã báo cáo về việc phát hiện ra dấu vết sử dụng đặc trưng của các sợi thực vật mỏng được tìm thấy trên ba công cụ bằng đá từ các trầm tích cuối kỷ Pleistocene tại Hang Tabon, Đảo Palawan, Philippines, có niên đại từ 39.000–33.000 BP. Sự phân bố các vết sử dụng trên các hiện vật này giống như sự phân bố được quan sát thấy trên các công cụ thử nghiệm được sử dụng để làm mỏng sợi, theo một kỹ thuật được ghi lại trong bối cảnh dân tộc học trong các cộng đồng Palawan và hiện đang phổ biến trong khu vực. Mục đích của hoạt động này là biến các đoạn thực vật cứng thành các dải mềm phù hợp làm vật liệu buộc hoặc đan giỏ, bẫy và thậm chí cả thuyền
Những kết quả này cho thấy rằng các hiện vật Đông Nam Á có vẻ đơn giản đang ẩn chứa những bằng chứng về sự phức tạp trong hành vi mà mắt thường không nhìn thấy được nhưng chúng ta có thể khám phá thông qua phân tích dấu vết sử dụng công cụ.
Những người ủng hộ Giả thuyết Tre đã đưa ra giả thuyết rằng các công cụ bằng đá ở Đông Nam Á chủ yếu được sử dụng để chế tạo công cụ tre và việc những người làm đồ thủ công thời tiền sử tập trung vào loại cây này sẽ giải thích được tính đơn giản về mặt công nghệ của các đồ tạo tác bằng đá (Xhauflair và cộng sự, 2023).
Kết quả từ nhóm của Xhauflair bổ sung thêm bằng chứng gần đây cho thấy công nghệ dựa trên thực vật thực sự đã tồn tại trong khu vực trong thời Tiền sử, nhưng cũng bổ sung thêm sắc thái cho Giả thuyết Tre theo nghĩa chặt chẽ, cho thấy rằng con người đầu tư vào vật liệu thực vật theo nghĩa rộng hơn nhiều và không chỉ sử dụng các công cụ bằng đá của họ để làm dao, mũi tên và phi tiêu bằng tre.
Phát biểu trong buổi họp báo tại bảo tàng quốc gia Philippines, Ts. Timothy James -Một thành viên của nhóm nghiên cứu đã khẳng định tính cố hữu, nhất quán của kĩ nghệ đá này, đồng thời nhấn mạnh mối liên hệ giữa con người và môi trường, sự hấp dẫn của môi trường nhiệt đới đối với cư dân săn bắn – hái lượm.

Dấu vết sử dụng và tàn tích được quan sát trên hiện vật P- XIII- T-299 từ lớp Pleistocene muộn, hang Tabon, Palawan, Philippines.

Ví dụ phân bố dấu vết sử dụng trên các công cụ thử nghiệm sử dụng cho việc làm mỏng sợi thực vật.
Quá trình tạo sợi được ghi lại tại các cộng đồng Palawan và thử nghiệm tạo ra sợi bằng công cụ đá.
Người dịch: MT
Nguồn tham khảo: Xhauflair, H., Jago-On, S., Vitales, T. J., Manipon, D., Amano, N., Callado, J. R., Tandang, D., Kerfant, C., Choa, O., & Pawlik, A. (2023). The invisible plant technology of Prehistoric Southeast Asia: Indirect evidence for basket and rope making at Tabon Cave, Philippines, 39-33,000 years ago. PloS one, 18(6), e0281415. https://doi.org/10.1371/journal.pone.0281415

Các nhà khảo cổ học Lào khai quật hang Tam Pà Ling (Nguồn: Vito Herna)
Nghiên cứu cấu trúc vi mô của các lớp đất đào từ hang Tam Pà Ling ở đông bắc Lào đã cung cấp cho nhóm các nhà khảo cổ học Đại học Flinders và các đồng nghiệp quốc tế những hiểu biết sâu sắc hơn về một số bằng chứng sớm nhất về Homo sapiens ở Đông Nam Á lục địa.
Di chỉ này đã được nghiên cứu trong 14 năm qua bởi một nhóm các nhà khoa học Lào, Pháp, Mỹ và Úc, phát hiện một số bằng chứng hóa thạch sớm nhất về tổ tiên trực tiếp của chúng ta ở Đông Nam Á.
Hiện nay, một nghiên cứu mới được dẫn đầu bởi Nghiên cứu sinh Vito Hernandez và Phó Giáo sư Mike Morley từ Đại học Nhân văn, Nghệ thuật và Khoa học Xã hội đã phục dựng lại điều kiện mặt đất trong hang động từ 52.000 đến 10.000 năm cách ngày nay, và được công bố trên Tạp chí Quaternary Science Reviews
"Sử dụng kỹ thuật vi địa tầng học tại Phòng thí nghiệm vi khảo cổ học Flinders, chúng tôi đã có thể tái tạo lại điều kiện hang động trong quá khứ và xác định dấu vết hoạt động của con người trong và xung quanh Tam Pà Ling", Hernandez cho biết. "Điều này cũng giúp chúng tôi xác định được bối cảnh chính xác mà một số hóa thạch người hiện đại sớm nhất ở Đông Nam Á được lắng đọng sâu bên trong".
Vi địa tầng học cho phép các nhà khoa học nghiên cứu đất ở mức độ chi tiết nhỏ nhất, cho phép họ quan sát các cấu trúc và đặc điểm lưu giữ thông tin về môi trường trong quá khứ, thậm chí cả dấu vết hoạt động của con người và động vật có thể đã bị bỏ qua trong quá trình khai quật do kích thước cực nhỏ của chúng.

PGS. Mike Moley (Nguồn: Flinders University)
Các hóa thạch người được phát hiện tại Tam Pà Ling đã được lắng đọng trong hang từ 86.000–30.000 năm trước, nhưng cho đến nay, các nhà nghiên cứu vẫn chưa tiến hành phân tích chi tiết các trầm tích xung quanh những hóa thạch này để hiểu được cách chúng được lắng đọng trong hang như thế nào hoặc các điều kiện môi trường tại thời điểm đó.
Những phát hiện cho thấy điều kiện trong hang thay đổi đáng kể, từ khí hậu ôn đới với điều kiện đất ẩm ướt thường xuyên sang khô theo mùa.
Phó Giáo sư Morley cho biết:"Sự thay đổi môi trường này ảnh hưởng đến địa hình bên trong hang và sẽ tác động đến cách trầm tích, bao gồm cả hóa thạch người được lắng đọng trong hang động".
"Cách thức Homo sapiens đầu tiên được chôn sâu trong hang từ lâu đã được tranh luận, nhưng kết quả phân tích trầm tích của chúng tôi chỉ ra rằng các hóa thạch đã được rửa trôi vào hang dưới dạng trầm tích rời rạc và các mảnh vụn tích tụ theo thời gian, có khả năng được nước từ các sườn đồi xung quanh mang theo trong thời kỳ mưa lớn".

Khai quật hang Tampaling (nguồn: Vito Hernandez)
Nhóm nghiên cứu cũng xác định được các dấu vết vi mô của than củi và tro được bảo quản trong trầm tích hang động, cho thấy rằng hoặc là cháy rừng đã xảy ra trong khu vực trong thời kỳ khô hạn, hoặc con người đến thăm hang có thể đã sử dụng lửa ở trong hang hoặc gần lối vào.
Đồng tác giả nghiên cứu, Phó giáo sư Fabrice Demeter, nhà cổ nhân chủng học từ Đại học Copenhagen, người đã lãnh đạo nhóm các nhà nghiên cứu quốc tế nghiên cứu Tam Pàn Ling từ năm 2009, cho biết:
"Nghiên cứu này đã cho phép nhóm của chúng tôi phát triển những hiểu biết chưa từng có về động lực của tổ tiên chúng ta khi họ phân tán qua các khu rừng đã từng thay đổi của Đông Nam Á và trong thời kỳ khí hậu khu vực bất ổn".
Người dịch: MT
Nguồn tham khảo:
https://phys.org/news/2024-10-fossils-insights-early-modern-human.html?fbclid=IwY2xjawGahMFleHRuA2FlbQIxMQABHdvOXmG5ZIRs-fglqOnl5qPBhrlch2vjVo_9lQagfA5sVuhIfpZir7bWQg_aem_CBsv1fNMCdKs0M1PHBpxAA

- Nhà xuất bản: Thanh Hóa – 2020
- Số trang: 212 tr
- Khổ sách: 21 x 29,7cm
Thanh Hóa, nơi sinh ra nhiều anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa làm rạng danh quê hương, đất nước. Trải qua thời gian, lịch sử đã để lại cho vùng đất này những di sản văn hóa vô cùng phong phú, đặc sắc, tiêu biểu là bộ sưu tập sắc phong đang được lưu giữ, bảo quản, trưng bày phát huy giá trị tại Bảo tàng tỉnh Thanh Hóa.
Sắc phong, sắc chỉ là văn bản của Nhà nước, do các vị vua ban tặng. Sắc phong có hai loại: sắc phong cho các vị thần và sắc phong chức tước cho các quan lại, quý tộc, người có công với triều đình hay cộng đồng.
Sắc phong thần là những sắc phong gìn giữ bảo quản trong các đình đền, miếu … dung để xác nhận việc phong thần cho các vị thần được thờ cúng trong các đình làng, đền, miếu (Thành hoàng …). Các vị thần được phong tặng có thể là thiên thần hay nhân thần. Thiên thần là những vị thần có nguồn gốc trong tín ngưỡng dân gian những nhân vật huyền thoại, vật linh, các hiện tượng thiên nhiên… Nhân thần là những nhân vật lịch sử cụ thể có công với nước chống giặc ngoại xâm, danh nhân văn hóa nhưng cũng có thể là người dân bình thường nhưng có công khai hoang lập làng…. gắn liền với lịch sử làng xã.
Sắc phong chức tước là loại sắc phong do nhà vua các triều đại phong kiến dung để phong chức tước cho các quan lại, quý tộc, người có công… Loại này không còn nhiều và thường do các gia đình, dòng họ lưu giữ nên ít được công chúng biết đến. Riêng loại sắc phong nội dung này ở Thanh Hóa lại khá phong phú, bởi nơi đây có nhiều công thần của các triều đại phong kiến khác nhau trong lịch sử dân tộc.
Tập sách là nguồn tư liệu phong phú, góp phần quan trọng trong việc nghiên cứu truyền thống lịch sử, văn hóa của tỉnh Thanh Hóa.

- Năm xuất bản: 2022
- Số trang: 434
Ngoài phần Lời nói đầu, cuốn sách được kết cấu thành 4 phần chính:
Phần I. Bản chất và đặc trưng của phương pháp nghiên cứu định tính
Phần này, nhóm tác giả làm rõ bản chất của nghiên cứu định tính và định lượng thông qua một số tiêu chí sau: (i) Khái niệm; (ii) Các mối quan tâm của nghiên cứu định tính/định lượng; (iii) Một số phương pháp thu thập thông tin cơ bản; (iv) Một số hạn chế của nghiên cứu; (v) Một số lỗi thường gặp. Trên cơ sở đó, nhận diện sự khác biệt chủ yếu giữa nghiên cứu định lượng và định tính; đề xuất phương thức lựa chọn phương pháp nghiên cứu phù hợp và sự kết hợp giữa hai phương pháp nghiên cứu trên. Nhóm tác giả khẳng định, mỗi loại phương pháp có thế mạnh riêng và những hạn chế nhất định. Trong thực tế, nhà nghiên cứu cần phải căn cứ vào mục tiêu, câu hỏi nghiên cứu và thế mạnh của các nhân đề lựa chọn loại hình phương pháp phù hợp để từ đó đạt được kết quả nghiên cứu tốt nhất.
Phần II. Thiết kế nghiên cứu định lượng và định tính
Tập trung trình bày mục đích và đặc điểm một số loại thiết kế nghiên cứu: (i) Thiết kế mô tả; (ii) Thiết kế nhân quả; (iii) Thiết kế khám phá/thăm dò; (iv) Thiết kế lịch sử; (v) Thiết kế so sánh theo không gian và theo thời gian; (vi) Thiết kế phân tích siêu dữ liệu; (vii) Thiết kế nghiên cứu hành động; (viii) Thiết kế nghiên cứu thực nghiệm. Nhóm tác giả cho rằng, đối với nhà nghiên cứu lành nghề, ý tưởng nghiên cứu có thể đến một cách tự nhiên và để có một ý tưởng hoàn chỉnh cần trải qua nhiều bước khác nhau trước khi đưa ra các câu hỏi nghiên cứu. Về bản chất, câu hỏi nghiên cứu la fnooij dung cơ bản của nghiên cứu được cụ thể hóa dưới dạng câu hỏi. Câu hỏi nghiên cứu khác với câu hỏi thông thường ở chỗ nó đòi hỏi câu trả lời phải có đầy đủ các bằng chứng khoa học và phải thông qua một quá trình nghiên cứu. Câu hỏi nghiên cứu phản ánh mối quan tâm của nhà nghiên cứu. Chúng làm nên nội dung nghiên cứu của đề tài
Phần III. Thu thập thông tin định lượng và định tính
Để có thể thu thập thông tin một cách đầy đủ, toàn diện và chính xác, đặc biệt đảm bảo tính khách quan cho hoạt động nghiên cứu, nhóm tác giả tập trung phân tích và hướng dẫn người nghiên cứu các cách thức thu thập thông tin: (i) Thu thập thông tin thứ cấp; (ii) Thu thập thông tin qua bảng hỏi; (iii) Thu thập thông tin định tính. Trong giai đoạn thực hành nghiên cứu xã hội tại thức địa, nhóm tác giả đưa ra một số lưu ý về đạo đức nghiên cứu trong tổ chức thu thập dữ liệu, trong đó có vấn đề bảo mật dữ liệu thu thập được.
Phần IV. Phân tích thông tin định lượng và định tính
Về phân tích thông tin định lượng, nhóm tác giả đưa ra một số khái niệm cơ bản và hướng dẫn cách so sánh trung bình hai mẫu độc lập và so sánh trung bình nhiều mẫu. Việc so sánh sự khác biệt giữa các nhóm khác nhau giúp làm rõ hiện trạng của vấn đề nghiên cứu; Hướng dẫn một số phương pháp phân tích như: Phân tích tương quan, phân tích hồi quy tuyến tính, phân tích hồi quy tuyến tính đơn biến, phân tích hồi quy tuyến tính đa biến. Trong quá trình phân tích thông tin định lượng, người nghiên cứu cần lưu ý một số điểm sau: thứ nhất, sử dụng thông tin định lượng trong nghiên cứu xã hội không thể tách rời toàn bộ quá trình nghiên cứu đinh lượng; thứ hai, sử dụng thông tin định lượng phải dựa trên khung lý thuyết và các giả thuyết; thứ ba, sử dụng thông tin định lượng cần bắt đầu bằng việc xử lý/ đánh giá mức độ nhất quán, độ tin cậy và tính có hiệu lực của thông tin…
Về phân tích định tính, nhóm tác giả đưa ra một số khái niệm cơ bản và chỉ ra cách xử lý thông tin khi có nguồn dữ liệu đầu vào như tài liệu ghi chép, băng ghi âm, tranh ảnh và hiện vật. Điểm nhấn của phần này là làm rõ các bước trong quá trình phân tích tư liệu văn bản: (i) Phân tích trên thực địa và quản lý dữ liệu; (ii) Mã hóa và ghi nhớ, việc này nhằm rút gọn dữ liệu để có thể dễ dàng phân tích chứ không được làm cho dữ liệu trở nên kềnh càng hơn; (iii) Tìm kiếm mô hình; (iv) Trình bày dữ liệu, rút ra kết luận và kiểm tra.
Xin trân trọng giới thiệu!