
- Người dịch: Phạm Văn Tuân
- Nhà xb: Dân Trí, 2019
- Khổ: 14 x 20,5
- Số trang: 164tr
Sau cuộc xâm lăng bằng súng ống, cuối thế kỳ 19, đầu thế kỷ 20, người Pháp bắt đầu chọn cách tiếp cận nhẹ nhàng hơn với mảnh đất An Nam khi đi sâu vào nghiên cứu và tìm hiểu văn hóa. Nhiều tác phẩm đã được ra đời ở giai đoạn này, khi họ khám phá đất nước chúng ta từ mọi phương diện: từ địa lý, môi trường tự nhiên, cảnh quan, đến cấu trúc xã hội, lịch sử, nghệ thuật, phong tục tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo, tâm lý,... Trong đó, Làng Xã Của Người An Nam Ở Bắc Kỳ là một nguồn tư liệu thú vị, khá đủ đầy. Đời sống tinh thần phong phú của người Việt xưa với các lễ hội, tín ngưỡng, thủ tục ma chay, cưới hỏi được đề cập sâu sát. Mọi khía cạnh của lãng xã ở Bắc Kỳ đều được miêu tả sắc bén: từ lịch sử hình thành, tổ chức hành chính, phân chia quyền lực cho đến hiện trạng xã hội, các vấn đề quan trọng của làng xã như đất đai, sở hữu, thuế. Trích đoạn Paul Ory nhận xét về nạn tham quan nhũng nhiễu: “Không có nơi nào mà quyền lực vượt trên cả pháp luật như ở nơi đây: chỉ cần lưu tâm tới vụ việc, bằng vài món quà biếu xén là đủ khiến kẻ nghèo hèn và người yếu thế trở thành kẻ phạm tội, bất chấp công lý”. Làng xã tuy là đơn vị hành chính thấp và nhỏ nhất về quy mô nhưng lại chứa đựng những giá trị tinh thần lớn lao, là tinh hoa của nhiều thế hệ người Việt, ẩn chứa trong đó cả sự phức tạp mà đôi khi người bản địa cũng không nắm bắt hết. Để có thể đi sâu vào văn hóa An Nam thời điểm đó, tác giả Paul Ory đã bỏ công sức học tiếng Việt, đi đến nhiều vùng quê, làng xã xa xôi, nhất là khu vực Bắc Kỳ xưa để có được cái nhìn khái quát, nhận định chi tiết nhất. Cuốn sách có tên tiếng Pháp là La commune Annamite au Tonkin, được xuất bản lần đầu tại Paris năm 1894 và từng được hai học giả Nguyễn Văn Huyên, Đào Duy Anh xếp vào thư mục tham khảo của mình vào cuối thập niên 1930.
(Tống Trung Tín, Bùi Văn Sơn, Khảo cổ học số 5/2023)
Bối cảnh lịch sử có sự tác động đến kiến trúc Champa trong từng thời kỳ khác nhau. Với quy mô kiến trúc to lớn, trang trí mỹ thuật đẹp, được xây dựng tại cửa ngõ kinh đô Vijaya, đã phần nào phản ảnh lịch sử Vijaya thời kỳ này, đây là thời kỳ ổn định về xã hội, kinh tế phát triển, tạo nên sức sống mới sau những biến động lịch sử. Như phần trên đã trình bày, có thể tháp Xuân Mỹ được xây dựng dưới triều vua Jaya Harivarman I. Ông là vị vua đã đưa vương quốc Champa phát triển hùng mạnh với nhiều chiến công như đẩy lùi cuộc tấn công của quân Khmer vào Vijaya vào năm 1149 và sự can thiệp của Đại Việt ở phía bắc năm 1150. Để củng cố vương quyền và sự thống nhất trên toàn lãnh thổ vương quốc Champa, vua Jaya Harivarman I đã đem quân dẹp tan các cuộc nổi loạn của tiểu quốc Amaravarti năm 1151 và tiểu quốc Panduranga năm 1160, được công nhận là người cai trị toàn cõi vương quốc Champa. Sau những chiến thắng, ông đã cho xây dựng rất nhiều ngôi tháp trên khắp lãnh thổ Champa như tại tháp G trong thánh địa Mỹ Sơn, mà bia ký G5 có ghi lại và tại tháp Po Nagar, hai thánh địa lớn nhất phía Bắc và phía Nam của vương quốc Champa (Maspero 2020: 252-253).
Những mảnh gốm sứ có nguồn gốc từ Đại Việt và Trung Hoa được sử dụng phục vụ trong công trình tôn giáo Champa, cũng phản ánh quá trình giao thương buôn bán diễn ra giữa vương quốc Champa với các quốc gia lân cận.Vương quốc Champa có vị trí địa lý nằm trên tuyến đường giao thương đông - tây, chính vì vậy có điều kiện tiếp thu những ảnh hưởng của văn hóa bên ngoài. Phế tích tháp Xuân Mỹ được xây dựng theo truyền thống kế thừa tinh hoa nghệ thuật kiến trúc tháp Champa, đó là sử dụng chất liệu gạch, kết hợp vật liệu xây dựng mới ảnh hưởng từ văn hóa Khmer đó là đá ong. Quá trình khai quật phát hiện một số hiện vật trang trí kiến trúc có khắc chữ Hán, phản ánh sự giao lưu giữa văn hóa Champa với văn hóa Đại Việt hoặc Trung Hoa xa hơn là Khmer. Đó là những minh chứng cho mối quan hệ mở rộng đa chiều giữa vùng đất Vijaya với các nền văn hóa bên ngoài, tiếp thu có chọn lọn làm giàu bản sắc văn hóa Champa trong lịch sử.
(Hoàng Như Khoa, Khảo cổ học số 2/2024)
(Phạm Thanh Sơn, Khảo cổ học số 1/2024)
- Tác giả :TS.Trần Thị Phương Hoa (Chủ biên), Viện sử học
- Năm xuất bản: 2023
- Số trang: 432tr
Cuốn sách được phát triển từ đề tài nằm trong hệ đề tài nghiên cứu cấp Bộ về Nông thôn Việt Nam từ cổ đại đến hiện đại do Viện Sử học triển khai từ năm 2013. Hệ đề tài nghiên cứu Nông thôn Việt Nam sẽ góp phần nhận diện đầy đủ hơn về diện mạo làng xã, hình thức quần cư, cộng cư, thiết chế chính trị - xã hội làng xã; kết cấu kinh tế truyền thống; quá trình thiên di, di dân; các mối quan hệ họ hàng – làng – nước ở nông thôn… và vai trò của nông thôn, làng xã trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Nội dung khoa học của đề tài góp phần tư vấn cho các nhà quản lý hoạch định những chính sách phù hợp đối với nông thôn, nông dân qua những kinh nghiệm lịch sử, như chính sách về đất đai, thuế khóa, về xây dựng thiết chế làng xã, về việc kết hợp các yếu tố pháp luật với luật lệ làng xã khi xử lý, giải quyết các vụ việc liên quan đến người dân… Đặc biệt, nội dung nghiên cứu của đề tài có thể góp phần cung cấp kinh nghiệm lịch sử trong quá trình triển khai xây dựng nông thôn mới hiện nay.
Đầu thế kỷ XX, nông thôn Việt Nam, trong đó nông thôn Trung Kỳ đã nằm trong chủ trương khai thác thuộc địa của chính quyền thực dân Pháp vì đây chính là nơi sản sinh ra các nguồn lực chủ yếu của thuộc địa như đất đai, thuế, nông sản phẩm, nguồn nhân lực. Việc phân chia Việt Nam ra làm ba xứ Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ và quá trình thiết lập hệ thống quản lý hành chính, kinh tế và xã hội ở những xứ này là một phần quan trọng trong hoạt động khai thác thuộc địa của Pháp ở Việt Nam.
Nhiều nghiên cứu của các học giả nước ngoài cho thấy Trung Kỳ là xứ có điều kiện tự nhiên đang dạng nhất Đông Dương, cùng với đó là sự phức tạp được hiện diện ở nhiều mặt như địa lý, lịch sử, thể chế chính trị. Chính những yếu tố này có những tác động nhất định đến nông thôn Trung Kỳ dưới chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Để làm rõ vấn đề này, năm 2023, Nhà xuất bản Khoa học xã hội xuất bản cuốn sách “Nông thôn Trung Kỳ từ năm 1858 đến năm 1945” do TS. Trần Thị Phương Hoa làm chủ biên.
Ngoài Lời nói đầu và Kết luận, nội dung chính của cuốn sách được thể hiện qua 3 chương:
Chương 1. Tổ chức, quản lý làng xã nông thôn Trung Kỳ thời Pháp thuộc
Chương 2. Kinh tế nông thôn Trung Kỳ dười thời Pháp thuộc
Chương 3. Văn hóa – xã hội nông thôn Trung Kỳ thời Pháp thuộc
Cầm cuốn sách trên tay, độc giả được tiếp cận một lượng lớn tài liệu sơ cấp và thứ cấp qua đó hiểu rõ phần nào sự thay đổi diện mạo nông thôn Trung Kỳ từ năm 1858 đến năm 1945. Phân tích nông thôn Trung Kỳ từ năm 1858 đến năm 1945 trên các bình diện, nhóm nghiên cứu khẳng định, thay đổi lớn nhất ở nông thôn Trung Kỳ thời Pháp thuộc là mối quan hệ giữa chính quyền trung ương và chính quyền làng xã được tăng cường; cơ sở hạ tầng đường sá, cầu cống được xây dựng, kết nối nông thôn với thành thị và giữa các vùng nông thôn với nhau. Tuy nhiên, đời sống người dân dường như không có thay đổi gì rõ rệt nếu không muốn nói tình trạng nghèo đói và bần cùng hóa có xu hướng tăng cao. Mâu thuẫn xã hội trong làng ngày càng thêm căng thẳng khi làng xã là nơi cung cấp nguồn nhân lực cũng như vật lực chủ yếu, quan trọng nhất cho chính quyền trung ương. Trong khi đó, người nông dân bị bần cùng hóa, bị bóc lột. Căng thẳng xã hội đã dẫn đến những phản kháng. Trên thực tế, các cuộc đấu tranh phần nhiều xuất phát từ nông thôn, kể từ phong trào Văn thân – Cần Vương, đến phong trào Duy Tân và sau này là phong trào Xô Viết – Nghệ Tĩnh đều lấy nông thôn, làng xã là nơi khởi phát và địa bàn hoạt động. Nhằm xoa dịu người dân, chính quyền thực dân đã thực thi một số chính sách đầu tư cho nông thôn nhưng sản xuất nông nghiệp đình đốn, suy thoái, đời sống người dân bấp bênh, kiệt quệ...
Xin trân trọng giới thiệu!
- Tác giả: Viện KHXH vùng Nam Bộ
- Năm xuất bản: 2023
- Nhà xb:Lao Động
- Số trang: 500
Vùng Nam Bộ là một vùng có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của Việt Nam. Vùng bao gồm Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ (Đồng Bằng Sông Cửu Long) bao gồm 19 tỉnh (trong đó có 2 thành phố lớn trực thuộc Trung ương là Thành phố Hồ Chí Minh và Cần Thơ) với nhiều tiềm năng trong phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh, quốc phòng quan trọng của đất nước. Những năm trở lại đây, thực tiễn sự phát triển của đất nước cho thấy những đóng góp lớn ở nhiều lĩnh vực có đóng góp nhiều nhất đươc đến từ vùng Nam Bộ. Riêng Đông Nam Bộ với đầu tàu kinh tế là Thành phố Hồ Chí Minh và tam giác phát triển: Đồng Nai, Bình Dương và Bà Rịa -Vũng Tàu tạo ra một vùng kinh tế năng động bậc nhất của Việt Nam và đóng góp kinh tế lớn nhất cả nước. Theo thống kê năm 2020, vùng Đông Nam Bộ đã đóng góp 32% GDP của cả nước, 44,7% tổng thu ngân sách nhà nước. Thu nhập bình quân đầu người năm 2020 cao nhất cả nước. Bên cạnh đó, Đồng Bằng sông Cửu Long, được mệnh danh là thủ phủ của xuất khẩu nông sản của Việt Nam với nhiều sản phẩm có quy mô sản xuất khẩu lớn như: Gạo, thủy sản, trái cây. Sự phát triển của kinh tế đem lại sự tác động phát triển xã hội. Trong giai đoạn 2020 -2023, có nhiều thay đổi lớn trong cơ cấu kinh tế, xã hội.
Cuốn sách: “Một số vấn đề về khoa học xã hội trong phát triển vùng Nam Bộ” – Phiên bản năm 2023 là một ấn phẩm thường niên của Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ. Cuốn sách tập hợp các bài viết nghiên cứu của các nhà khoa học, cán bộ nghiên cứu của Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ trong từng năm. Trong cuốn sách phiên bản năm 2023 này, có tổng số trên 50 bài viết về các mảng vấn đề của khoa học xã hội trên các phương diện như: Sử học, Kinh tế học, xã hội học, Triết học và chính trị học, Văn học và Ngôn ngữ học, Môi trường và phát triển, Dân tộc – tôn giáo, Khảo cổ học,…Các nghiên cứu được đề cập và viết theo diện những nghiên cứu chuyên sâu vào từng lĩnh vực là kết quả nghiên cứu khoa học, hội thảo, các đề tài các cấp do viên chức và các nhà nghiên cứu của Việt cùng triển khai, tập hợp và xuất bản.
Xin trân trọng giới thiệu!

- Năm xuất bản: 2022
- Số trang: 244
Cuốn sách là kết quả nghiên cứu của đề tài cấp Bộ của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam “Cải cách thể chế kinh tế của Hồ Quý Ly và Lê Thánh Tông”, do Viện Kinh tế Việt Nam chủ trì và TS. Lý Hoàng Mai làm chủ nhiệm.
Ngoài Lời nói đầu và Kết luận, nội dung chính của cuốn sách được bố cục thành 3 chương:
Chương 1. Cải cách thể chế chính trị, kinh tế của Hồ Quý Ly
Chương này, nhóm tác giả mô tả, phân tích bối cảnh lịch sử dẫn đến các cuộc cải cách thể chế của Hồ Quý Ly, đồng thời nghiên cứu, phân tích các nội dung của cuộc cải cách thể chế của Hồ Quý Ly dưới góc độ thể chế chính trị và thể chế kinh tế. Nghiên cứu khẳng định, cuộc cải cách của Hồ Quý Ly đã phần nào giải quyết tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội cuối thời Trần. Những cải cách này có mặt tích cực và hạn chế, nhưng vai trò “mở đường” của Hồ Quý Ly trong lịch sử khi thực hiện cuộc cải cách với mong muốn xây dựng một nhà nước trung ương tập quyền có sức mạnh về chính trị, quân sự, kinh tế để chống giặc ngoại xâm là điều không thể phủ nhận. Sự xuất hiện những tư tưởng cải cách của Hồ Quý Ly cuối thể kỷ XIV đầu thế kỷ XV đã góp phần định hướng một tiến trình vận động của xã hội phong kiến Việt Nam ở những thế kỷ tiếp theo trong việc xây dựng nhà nước phong kiến trung ương tập quyền.
Chương 2. Cải cách thể chế chính trị, kinh tế của Lê Thánh Tông
Tập trung phân tích bối cảnh lịch sử dẫn đến cải cách thể chế của Lê Thánh Tông; nghiên cứu, phân tích nội dung các cuộc cải cách thể chế của Lê Thánh Tông dưới hai góc độ thể chế chính trị và thể chế kinh tế. Về cải cách thể chế chính trị, nhóm tác giả phân tích một số nội dung: (i) Tư tưởng trị nước của lê Thánh Tông; (ii) Cải cách thể chế chính trị; (iii) Cải cách thể chế hành chính. Nghiên cứu khẳng định, cải cách hành chính dưới triều vua Lê Thánh Tông được đánh giá là tương đối toàn diện và đã mang lại sự hưng thịnh cho đất nước lúc bấy giờ, tình hình chính trị - xã hội ổn định, kinh tế đất nước phát triển. Thể chế nhà nước cũng hoàn thiện hơn các triều đại trước như: hạn chế sự lạm dụng quyền lực, hạn chế tha hóa, tham nhũng, hối lộ, lộng quyền của công thần trong giai đoạn Lê sơ, khi nhà vua còn là bậc minh quân.
Chương 3. Những tác động của các cuộc cải cách tới nền kinh tế phong kiến thế kỷ XV và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Trong chương này, nhóm nghiên cứu làm rõ ảnh hưởng của hai cuộc cải cách này tới nền kinh tế phong kiến ở thế kỷ XV trên các phương diện: sở hữu đất đai, nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp. Đồng thời, đánh giá những kết quả của hai cuộc cải cách ở các mặt thành công và hạn chế, chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế và rút ra bài học kinh nghiệm trong phát triển đất nước.
Có thể nói, cuốn sách là công trình nghiên cứu công phu của tập thể tác giả. Bằng cách tiếp cận đặc thù của lịch sử kinh tế, phương pháp nghiên cứu lịch sử, logic, so sánh.. nhóm nghiên cứu đã cung cấp cho người đọc những thông tin hữu ích, đặc biệt có giá trị về hoạt động cải cách thể chế chính trị và kinh tế của Hồ Quý Ly và Lê Thánh Tông từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XV. Hy vọng cuốn sách đáp ứng nhu cầu của độc giả quan tâm.
Xin trân trọng giới thiệu!

- Nhà xuất bản: Văn hóa Dân tộc
- Năm xuất bản: 2021
- Số trang: 400tr
- Khổ sách: 16 x 24
Bố cục cuốn sách được cấu trúc theo hành trình nghiên cứu của Tiến sĩ Vũ Quốc Hiền với 2 phần chính:
- Phần thứ nhất có tựa đề Đi tìm những cổ xưa là tập hợp các bài nghiên cứu tiêu biểu của ông, bao gồm cả bài viết riêng và chung, nhưng đều không thể phủ nhận dấu ấn của Tiến sĩ Vũ Quốc Hiền. Các bài viết phần này được sắp xếp theo niên đại và khu vực, nhằm nêu bật những đóng góp của ông đối với khảo cổ học Việt Nam, đặc biệt là khảo cổ học ở khu vực Nam Trung bộ và Đông Nam bộ.
- Phần thứ hai với tựa đề Trong miền ký ức là tập hợp một số bài viết của bạn bè, đồng nghiệp chia sẻ những kỷ niệm, tình cảm và niềm thương tiếc của họ đối với ông.
Ngoài ra, trong cuốn sách còn có các bức ký họa về Tiến sĩ Vũ Quốc Hiền dưới ngòi bút của các họa sĩ Trần Nguyên Đán và Chu Văn Vệ cùng với những bức hình kỷ niệm trong suốt quá trình gần 40 năm công tác của ông.
Cuốn sách “Vũ Quốc Hiền - Hành trình tìm về quá khứ” là một tri ân với những kỷ niệm, những tình cảm cá nhân, song đây cũng là một ấn phẩm khoa học của một nhà khảo cổ học trung thực, nghĩa tình, một người luôn cháy hết mình với nghề, với đời.
Xin trân trọng giới thiệu!

Mục đích của việc ra mắt bản tiếng Việt Khảo cổ học Đồng bằng sông Mê Kông - Tập II: Văn minh vật chất Óc Eo lần này trước hết là để độc giả trong nước nói chung và các nhà nghiên cứu nói riêng có cơ hội khám phá Óc Eo tường tận hơn qua những nghiên cứu khảo cổ học quan trọng của Louis Malleret.
Ngoài ra, mục đích thứ hai là thu thập, công bố tư liệu nhằm chuẩn bị hồ sơ xin công nhận di sản văn hóa vật thể thế giới cho Quần thể di tích Quốc gia đặc biệt: Óc Eo - Ba Thê.
Vì hai mục đích cấp thiết này, Ban Quản lý Di tích Văn hóa óc Eo tỉnh An Giang đã tiến hành hợp tác với EFEO và NXB Tổng hợp TPHCM tổ chức biên soạn, dịch và giới thiệu bộ sách Khảo cổ học Đồng bằng sông Mê Kông. Chính vì các lý do trên, tập II của bộ sách có nhan đề Văn minh vật chất Óc Eo được lựa chọn công bố trước tiên.
Đây là bản Việt ngữ chính thức ra mắt độc giả lần đầu tiên sau hơn 60 năm, kể từ thời điểm nguyên tác tiếng Pháp ra đời, do EFEO ấn hành vào năm 1959. Các tập còn lại của bộ sách sẽ lần lượt ra mắt độc giả Việt Nam trong thời gian tới.
Tập II Văn minh vật chất Óc Eo được chia làm hai quyển (chính văn và phụ bản), trong đó quyển 1 dành cho việc khảo sát, khai quật, miêu tả hiện vật và nghiên cứu khảo cổ. Nội dung quyển I gồm ba phần:
Phần 1 giới thiệu các hiện vật là công cụ lao động, sinh hoạt của cư dân thuộc văn hóa Óc Eo, chất liệu được làm bằng đá và xương răng của các loài động vật.
Phần 2 giới thiệu chi tiết các hiện vật bằng đất nung bao gồm các công cụ được sử dụng trong hoạt động thủ công nghiệp làm gốm, kim hoàn và các loại đồ gốm được sử dụng trong sinh hoạt hàng ngày của cư dân văn hóa Óc Eo.
Phần 3 là những nghiên cứu về kỹ thuật luyện kim đồng và sắt của cư dân cổ cùng các hiện vật được làm bằng kim loại như tượng của các vị thần và Phật, nhạc khí, đồ trang sức và các hiện vật kim loại của nước ngoài được phát hiện ở các di chỉ Óc Eo.
Riêng quyển 2 là phần phụ bản bao gồm hình ảnh và chú thích về các dụng cụ, di vật thu thập được từ các cuộc khai quật quần thể di chỉ Óc Eo và Ba Thê cùng với một số ảnh chụp, ảnh dập từ nguồn ảnh liệu của EFEO. Nhiều hiện vật được chụp từ các góc độ khác nhau kèm với số đo, kích thước, đường kính rất chính xác, tỉ mỉ.
Tập II bộ sách này cho thấy Louis Malleret đã nghiên cứu một cách toàn diện và chi tiết nhiều phương diện văn hóa của miền Tây sông Hậu, giúp người đọc nhận diện được các loại hình cổ vật Óc Eo, phương thức sản xuất và ảnh hưởng kỹ thuật cũng như mối quan hệ giao thoa văn hóa của cư dân Óc Eo với các nền văn minh khác trong khu vực.